Vì sao Lê Hữu Trác thành công trong nghề y

Trong lịch sử Y học cổ truyền Việt Nam mấy ngàn năm qua, bên cạnh Đại danh y Tuệ Tĩnh với bộ sách “Nam dược thần diệu”, còn có một ngôi sao sáng mà mỗi khi khắc đến tên tuổi của ông, chúng ta không thể nào quên bộ sách thuốc quý giá có một không hai trong kho tàng y học dân tộc: Đó là bậc Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông với bộ sách “Y tông tâm lĩnh”.

Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác, sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý 1720. Nguyên quán ở thôn Vân Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên), mất ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi 1791 ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình mấy đời khoa bảng (ông, cha, chú, bác, anh em) đều học giỏi đỗ đạt cao và làm quan to trong triều Vua Lê - Chúa Trịnh. Biệt hiệu Hải Thượng Lãn Ông có nghĩa là Ông già lười ở Hải Thượng có lẽ do 2 chữ đầu tiên của tên tỉnh (Hải Dương) và tên phủ (Thượng Hồng) ghép lại? nhưng cũng lại có thể do chữ Bầu Thượng là quê mẹ và là nơi ông ở lâu nhất (từ năm 26 tuổi cho đến khi mất). Mặc dầu lấy biệt hiệu Lãn Ông, nhưng thực tế chúng ta sẽ thấy với ông: lười ở đây là lười với công danh, phú quý, nhưng lại rất chăm chỉ, cần mẫn đối với sự nghiệp chữa bệnh, cứu người.

Vì sao Lê Hữu Trác thành công trong nghề y

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791)

Hải Thượng Lãn Ông xứng đáng là bậc Danh y Việt Nam vì ông đã hết lòng vì sự nghiệp y học nước nhà. Ông đã biết thừa kế học thuật của những bậc danh y đời trước và nhất là nêu cao tinh thần độc lập sáng tạo, tiếp thu học thuật nước ngoài có phê phán, chọn lọc và phát triển. Ông luôn luôn độc lập, suy nghĩ, vận dụng linh hoạt vào thực tế lâm sàng, đúc rút kinh nghiệm làm sáng tỏ nhiều điều ngờ vực, bổ sung những chỗ người xưa chưa nói tới. Qua gần 30 năm nghiên cứu, vừa làm thuốc vừa chữa bệnh, vừa mở lớp truyền dạy nghề y cho các thế hệ học trò, đặc biệt ông đã tổng kết vài đúc rút kinh nghiệm của trung y và y học cổ truyền của dân tộc, biên soạn nên bộ sách thuốc đồ sộ và quý giá là “Hải thượng y tông tâm lĩnh”gồm 28 tập, 66 quyển. Bộ sách thuốc này của ông đã được đánh giá cao trong và ngoài nước, nó đã đánh dấu một bước tiến mới của y học cổ truyền Việt Nam, góp phần xây dựng và phát triển nền y học nước nhà.

Đặc biệt Hải Thượng Lãn Ông đã luôn “coi nghề y là một nghề cao quý, coi việc bảo vệ sinh mệnh con người là nhiệm vụ hàng đầu”. Vì thế, ông rất thận trọng trong khi thăm bệnh và bốc thuốc cho người bệnh, cho nhân dân. Ông cũng khẳng định nghề liên quan chặt chẽ với đức độ của bản thân và của con cháu lâu dài. Ông nói: “Đạo làm thuốc là một thuật cao quý để giữ gìn mạng sống, cũng là đầu mối lớn lao về đạo đức chân chính” (Y đạo nãi vệ sinh chi phí thuật, thực đức chi đại đoan). Theo ông, qua nghề y, người ta có thể bồi đắp chữ “đức” được cao dầy, nếu người đó thực sự giúp ích nhiều cho người bệnh.

Nhưng nếu người đó lợi dụng nghề y để hữu ý hoặc vô ý làm những điều có hại cho người khác, thì cũng mắc những điểm “thất đức” không nhỏ. Sinh thời ông thường phàn nàn: “than ôi đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn, không thể tha thứ được....” Có thể nói: Không có nghề nào nhân đạo bằng nghề y cứu sống người; cũng có thể nói không có nghề nào vô nhân đạo bằng nghề y thiếu đạo đức. Ông thường răn dạy học trò: “Làm thuốc mà không có lòng thương chung (từ) giúp đỡ người khác (tế) làm hằng tâm, không nghiền ngẫm sâu sắc tìm cách cứu sống người mà chỉ chăm chăm kể lợi tính công, lấy của hại người thì còn khác gì bọn giặc cướp”. Theo ông người lương y ngoài việc biết quan tâm đến người khác, còn cần có những tính cách như: đức độ, sáng suốt, thông minh, rộng lượng, thành thật, khiêm tốn, chăm chỉ, chịu khó và nhất là cần phải tránh 8 tội sau đây:

1- Lười: Lẽ ra phải thăm khám cẩn thận rồi mới bốc thuốc, lại ngại đêm hôm mưa gió, vất vả không chịu tự mình đến thăm, cứ cho thuốc qua loa. Đó là tôi Lười biếng.

2- Keo: Thấy bệnh cần dùng thứ thuốc nào đó mới cứu chữa được, song thầy lo người bệnh không đủ sức trang trải mà cho vị rẻ tiền hơn(điều này ảnh hưởng đến hiệu quả chữa bệnh). Đó là tội Keo kiệt.

3-Tham: Thấy bệnh đã có nguy cơ, nhưng thầy không bảo ngay cho gia đình biết sự thật, cứ ỡm ờ đến mãi để làm tiền. Đó là tội tham lam.

4- Dối: Thấy chứng dễ lại nói dối là khó, nhăn mày, thè lưỡi, doạ người ta sợ khiếp vía, để lấy được nhiều tiền. Đó là tội lừa dối?

5- Dốt: Nhân chứng thì lờ mờ, sức học thì nông cạn, thiên lệch, bốc thuốc thì công bổ lộn xộn. Đó là tội dốt nát.

6- Ác: Đó là chứng khó, lẽ ra phải nói thật cho người nhà biết rồi ra sức mà chữa, lại sợ mang tiếng là người không biết chữa, vừa ngại không thành công, không lấy được nhiều tiền, nên không chịu nhận chữa, cứ để mặc người ta chịu chết. Đó là tội bất nhân.

7- Hẹp hòi: Có người thường ngày bất bình với mình. khi có bệnh phải nhờ cậy đến mình, thì mình nảy ý nghĩ trả thù, không chịu hết lòng, ra sức trong lúc chữa bệnh. Đó là tội hẹp hòi.

8- Thất đức: Thấy người mồ côi, goá bụa, gia đình hiền hiếu nhưng mắc cảnh nghèo túng, thấy ngại uổng công (không được bao nhiêu tiền) mà không dốc sức giúp đỡ. Đó là tội Thất đức.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y lớn, là niềm tự hào của dân tộc ta. Tuy sống cách chúng ta gần 3 thế kỷ nhưng tư tưởng và những học thuật và phương pháp tiến bộ của ông trong nghề nghiệp, cũng như thái độ khoa học chân chính và nhất là y đức của ông vẫn là một bài học có tính thời sự nóng hổi và vô cùng quý báu, để chúng ta học tập và noi theo. Nhân dịp kỷ niệm Ngày thầy thuốc Việt Nam năm nay, xin gợi lại đôi điều để chúng ta cùng suy ngẫm.

Vì sao Lê Hữu Trác thành công trong nghề y

Quần thể tượng đài Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tại huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh

Vì sao Lê Hữu Trác thành công trong nghề y

Quần thể tượng đài Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tạihuyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh

Hữu Giới

Thứ năm, 17/02/2011 17:29

Ðại danh y Lê Hữu Trác, tấm gương sáng về y đức, y thuật

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (trong ảnh) sinh năm Giáp Thìn - 1724 (cũng có tài liệu ghi chép ông sinh năm Canh Tý, 1720) tại làng Liêu Xá, huyện Ðường Hào, Phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).

Vì sao Lê Hữu Trác thành công trong nghề y
Tuy nhiên, cuộc đời ông chủ yếu lại gắn bó với quê mẹ thôn Bàu Thượng, xã Tình Diệm, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông là con thứ bảy (bố là Lê Hữu Mưu, mẹ là bà Bùi Thị Thường) nên thường được gọi là cậu Chiêu Bảy. Dòng tộc ông từng nổi tiếng với truyền thống khoa bảng: Ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh ông đỗ Ðệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư.

Sinh ra trong một cự tộc, được theo cha học tập ở kinh kỳ, Lê Hữu Trác sớm nổi tiếng tinh anh, thông thạo cả nho, y, lý, số... Nhưng thời đại ông là một trong những thời kỳ rối ren nhất trong lịch sử dân tộc, chiến tranh liên miên, triều chính khủng hoảng, Vua Lê - Chúa Trịnh chèn ép nhau, rồi cát cứ, giao tranh Ðằng trong - Ðằng ngoài, dân tình đói khổ, phiêu tán... Tư chất thông minh, truyền thống gia đình và hoàn cảnh xô đẩy của cuộc đời đã giúp ông sớm nhận thức được bản chất xã hội; vì vậy, khác với nhiều sĩ tử cùng thời, ông đã kiên quyết khước từ con đường cử nghiệp để ẩn về quê mẹ, vừa trông nom gia đình, vừa đọc sách, làm thơ, chữa bệnh cứu người như lời ông tâm sự: 'Sá chi vinh nhục việc đời/ Ðem thân đạo nghĩa vào nơi lâm tuyền'.

Hơn 40 năm ẩn cư, mặc dù tự nhận mình là 'Lãn Ông' - ông già lười, nhưng thật sự đó là những năm tháng lao động, làm việc cần cù nhất, tâm huyết nhất và cũng đầy sức sáng tạo của Hải Thượng (tên hiệu lấy theo nguyên quán của ông là phủ Thượng Hồng, Hải Dương; Thượng cũng còn có nghĩa là thôn Bàu Thượng, quê mẹ ở Hương Sơn). Cùng với chữa bệnh cứu người, ông đã miệt mài đọc sách, nghiên cứu về y thuật, y lý, tìm kiếm, khảo cứu, điều chế các loài dược liệu trong vùng, tổng hợp, sáng tạo ra nhiều bài thuốc dân gian, nhiều cách chữa bệnh đơn giản, hiệu quả.

Ngày 12 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), Chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô chữa bệnh. Gắng xong bổn phận, ông lại cáo xin về quê ngoại để tiếp tục sự nghiệp trị bệnh cứu người; bổ sung bộ 'Y tông tâm lĩnh', viết thêm tác phẩm 'Thượng kinh ký sự'... Ông thanh thản ra đi đúng vào ngày Rằm tháng Giêng năm Tân Hợi - 1791. Tương truyền, trước lúc lâm chung, ông dặn con cháu thả một cánh diều ông thường chơi và buộc ở góc nhà, diều rơi ở đâu thì táng ông ở đấy. Có lẽ vì vậy nên núi Minh Tự nơi có ngôi mộ ông ở xã Sơn Trung, Hương Sơn từ lâu nay được nhân dân trong vùng gọi là núi Cánh Diều.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông như một viên ngọc quý, càng mài càng thấy sáng. Trước hết, đó là một đại danh y với học vấn uyên thâm, am tường thiên văn, địa lý, hiểu sâu sắc thời vận, không ngại gian khổ, cần cù, độc lập, sáng tạo trong nghiên cứu y học. Suốt cả cuộc đời làm thuốc, ông đã có công sưu tầm, phát hiện và bổ sung 300 vị thuốc nam, thu thập tổng hợp 2.854 phương thuốc hay của các bậc tiền bối lưu truyền trong dân gian. Sau hơn 40 năm miệt mài nghiên cứu và tận tụy chữa bệnh cứu người, ông đã để lại cho nền y học Việt Nam một di sản quý giá, đặc biệt là bộ sách 'Y tông tâm lĩnh' được khắc in vào năm 1885, gồm 28 tập, 66 quyển. Trong tác phẩm đồ sộ này, Hải Thượng đã đúc kết tinh hoa y học cổ truyền Phương Ðông và y học cổ truyền Việt Nam, thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của bản thân, xây dựng thành hệ thống toàn bộ Lý, Pháp, Phương, Dược của nền y học nước nhà. Những trước tác mà đại danh y để lại chính là bộ giáo khoa kinh điển mẫu mực, góp phần đào tạo, bồi dưỡng về y đức, y đạo, y thuật cho các thầy thuốc đời sau.

Chín điều 'Y huấn cách ngôn' chính là khuôn phép, nguyên tắc của người hành nghề y dược; tám chữ: Nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn và cần cù mãi là kim chỉ nam về y đức cho những người thầy thuốc chân chính. Cùng với thời gian, những lời di huấn đó ngày càng tỏa sáng trong tâm hồn các thế hệ thầy thuốc: 'Ðạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công'.

Lê Hữu Trác còn là một nhà văn xuất sắc. Tác phẩm 'Thượng kinh ký sự' ghi chép lại những sự kiện, những điều mắt thấy tai nghe khi ông lên kinh đô chữa bệnh cho nhà chúa; nhưng thông qua tác phẩm có thể thấy rõ tính cách của ông, một con người coi thường danh lợi, một nghệ sĩ giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật. Tác phẩm đã độc chiếm một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Hoặc trong sách 'Âm dương y án' chỉ ghi lại một số câu chuyện chữa bệnh nhưng lại có giá trị nhân văn sâu sắc. Người đương thời đã nhận xét: 'Tiên sinh là bậc tuổi cao, đức dày, có tài làm thuốc của Hiên Viên, Kỳ Bá; có tài làm thơ của Lý Bạch, Ðỗ Phủ; lại có cái chí nhàn dật, cái tình phong nhã của một bậc cao sĩ. Bao nhiêu nhân văn, tài tử muốn xin theo hầu'.

Từ cuộc đời và sự nghiệp của mình, Hải Thượng Lãn Ông còn để lại cho hậu thế những giá trị lớn về tư tưởng. Ðó là quan điểm về cuộc sống, quyết tâm vứt bỏ 'cái chí bon chen trong trường danh lợi' để theo đuổi chí hướng 'Nghề y thiết thực lợi ích cho mình, giúp đỡ mọi người'. Về nghề nghiệp, với ông 'nghề thuốc là một nghề thanh cao, là một nghề có lòng nhân ái'. Về trước tác và truyền thụ, ông muốn 'thâu tóm toàn bộ hàng trăm cuốn sách, đúc thành một pho để tiện xem, tiện đọc' và xem đây như là một yêu cầu của thời bấy giờ. Vì vậy, sách của ông viết xong đến đâu là có người chép tay truyền nhau. Về kế thừa và học tập, ông nêu cao tinh thần khổ học, học phải có chọn lọc, có sáng tạo, có phương pháp và với tinh thần suy nghĩ độc lập cao. Khó có người làm thuốc nào như ông không hề giấu 'dốt', dám trình bày lại những trường hợp bệnh chữa không khỏi, người bệnh đã chết để người sau rút kinh nghiệm: 'Nhưng thói thường cứu được một người thì hoa chân múa tay biểu dương cho mọi người cùng biết, còn lỡ thất bại thì giấu đi, thường người ta hay giấu những thói xấu của mình mà không đem sự thực nói với người khác... Trong việc chữa bệnh, tôi từng ứng biến để đối phó với bệnh tình, chuyển nặng ra nhẹ, cứu chết lấy sống được bao nhiêu trường hợp mà vẫn có những chứng phải bó tay đợi chết cũng không phải là ít. Tôi không tự thẹn với trình độ thấp kém trong việc cứu người cho nên ngoài những 'Dương án' lại chép thêm một tập kể lại những lời khó nói ra được, gọi là 'Âm án'. Mong những bậc trí thức có chí làm thuốc sau này, khi thấy những chỗ hay của tôi chưa đáng bắt chước, nhưng thấy chỗ dở của tôi cần phải lấy làm gương, không nên quá yêu tôi mà bảo chỉ chữa được bệnh mà không chữa được mệnh'.... Về phong cách đối nhân xử thế, ông luôn khiêm tốn, không hề tự cao, tự đại, luôn tranh thủ sự đồng tình của người khác để cầu học hoặc thu kết quả trong việc làm. Ðối với người bệnh, theo ông phải biết 'quên mình cứu chữa người ta'.

Cùng với các trước tác để lại, chính cuộc đời 70 mùa xuân của Hải Thượng Lãn Ông, với 44 năm sống, làm thuốc, chữa bệnh cứu người trên quê mẹ Hương Sơn, Hà Tĩnh, với tài cao, đức rộng, cốt cách thanh tao, Lê Hữu Trác đã trở thành một danh nhân văn hóa, một thiên tài kiệt xuất của nền y học cổ truyền Việt Nam...

Ðể tôn vinh và khắc ghi công lao to lớn của ông, trong nhiều thập kỷ qua, cùng với hậu duệ của dòng họ Lê Hữu ở quê cha và quê mẹ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Y tế cùng chính quyền, nhân dân các địa phương đã dành nhiều công sức gìn giữ, tôn tạo và phát huy những giá trị di sản đại danh y để lại. Dự án tu bổ, tôn tạo quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông tại Hương Sơn, Hà Tĩnh do Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác làm chủ đầu tư đã được triển khai, đến nay nhiều hạng mục đã hoàn thành và phát huy hiệu quả. Tỉnh cũng đang phối hợp với một số tổ chức văn hóa, khoa học nghiên cứu xây dựng Ðề án phát triển bền vững khu vực này trên cơ sở kết hợp các tiềm năng, lợi thế về di sản văn hóa - tâm linh với du lịch sinh thái, dịch vụ y tế, chăn nuôi, trồng và chế dược liệu... Tại xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên, các di tích liên quan đến dòng họ Lê Hữu cũng đã xếp hạng quốc gia và được đầu tư tôn tạo.

Vào dịp kỷ niệm 220 năm Ngày mất của ông, UBND tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Bộ Y tế, Hội Ðông y Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động tưởng niệm có ý nghĩa, trong đó có Lễ kỷ niệm, trao giải thưởng y học dân tộc Hải Thượng Lãn Ông lần thứ nhất. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh phối hợp với Viện Bỏng quốc gia tổ chức trưng bày trọn bộ 'Y tông tâm lĩnh' mới được phục chế, xây dựng chương trình nghệ thuật 'Nghĩa tình đất mẹ' với nhiều ca khúc, tiết mục mới về cuộc đời và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông...

(Theo Nhân Dân Online)