Trong bài ca dao Cưới nàng anh toan cô gái thách cưới chàng trai cái gì

Bài làm

Ca dao – dân ca là một thể loại văn học dân gian có kha năng đi sâu phản ánh mọi mặt cuộc sống của nhân dân lao động. Phong tục cưới xin cũng là một đề tài quen thuộc mà ca dao thường quan tâm, miêu tả. Với cái nhìn hóm hình, hài hước, tác già dân gian phàn ánh phong tục cưới xin ngày xưa qua bài ca dao sau đây:

Cưới nàng, anh toan dẫn voi,…

Để cho con lợn, con gà nó ăn

Bài ca dao thế hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: dù trong cảnh sống nghèo khó vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Đám cưới nghèo đến vậy mà vần vui. Người binh dân đã tìm thấy niềm vui ngay trong cảnh nghèo như thế.

Đây là tiếng cười tự trào của người bình dân trong ca dao. Người lao động tự cười mình trong cảnh nghèo. Lại chọn đúng cảnh đám cưới là lúc bộc lộ rõ nhất cái nghèo để cưới, để vui, để thể hiện lòng yêu đời, ham sống. Khi người ta tự cười mình thì tiếng cười ấy bộc lộ rõ nhất bản lĩnh và quan niệm sống của họ. Vậy thì ở đây, nguôi nông dân đã tự cười minh như thê nào và tiếng cười ấy đã cho ta thấy tâm hồn của họ ra sao?

Bài ca dao là cuộc đối thoại lí thú giữa chàng và nàng. Các tác già dân gian đã mượn hình ảnh trào lộng, hài hước đế thể hiện nội dung trữ tình. Tình yêu của chàng trai và cô gái sắp sửa tiến tới hôn nhân. để đi tới trăm năm hạnh phúc, đôi trai tài gái sắc còn phải bước qua cửa ải xin cưới, dẫn cưới, đây cũng là tập tục gây trò ngại cho không ít cặp uyên ương.

Đứng trước sự việc hệ trọng của đời người, chàng và nàng không còn mơ mộng như lúc mới yêu nhau được nữa. Hai người đã tâm sự, bàn bạc với nhau trước khi chính thức trình quan viên hai họ về dự định cho đám cưới nay mai.

Sự lí thú bắt đầu từ chô chàng trai chủ động kể về những lê vật mà mình toan dân cưới khi anh ta chưa thê hòi người yêu là nhà gái thách cưới những gì. Chàng trai hổn nhiên giãi bày:

Cưới nàng, anh toan dẫn voi,

Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.

Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,

Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.

Miễn là cỏ thú bốn chân,

Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.

Lời tâm sự bộc lộ hoàn cảnh, tấm lòng, tính nết, tâm tư, nguyện vọng của chàng trai. Nhà nghèo thật nhưng cưới vợ chẳng lẽ lại không có lễ vật dẫn cưới theo đúng phong tục? Sự khoác lác, ba hoa của chàng trai được tác già hé mò qua từ toan: Cưới nàng, anh toan dẫn voi… một ý định phi lí khó có thể thành hiện thực. Chàng trai đã khôn ngoan đưa ra những lê vật chi có trong tường tượng của mình. Đó là voi, trâu, bò… toàn những con vật quý hiếm hoặc đắt tiền, có khi cả đời anh ta không thê nào mua được.

>> Xem thêm:  Soạn bài: Tựa “Trích diễm thi tập” – Ngữ Văn 10 Tập 2

Đê trân an người yêu, bằng lôi nói khoa trương, phóng đại, chàng trai đã dõng dạc lặp lại ba lẩn với vẻ tự tin như đinh đóng cột: dân voi, dẫn trâu, dân bò. Chàng trai đã tưởng tượng ra lễ cưới thật sang trọng, linh đình. Ai ngờ mỗi lần công bố lại là một lần thay đổi, mỗi lần thay đổi lại được giải thích bằng lí do nực cười: dẫn voi / sợ quốc cấm, dẫn trâu / sợ máu hàn và dẫn bò/ sợ họ nhà nàng co gân. Lí lẽ của chàng trai thoạt nghe cũng có vẻ chấp nhận được. Chàng giải thích lí do không dẫn các lễ vật nêu trên một cách khôn ngoan: phần vì tôn trọng luật pháp, phẩn vì lo lắng cho sức khỏe họ hàng nhà gái (từ sợ được lặp lại ba lần). Đúng là một chàng rê chu đáo, cẩn thận, ai nỡ ngờ vực lòng thành của chàng.

Đọc kĩ, ta sẽ thấy với lôi nói giảm dẩn: voi – trâu – bò – chuột, chàng trai đã khéo léo đánh đổng con voi, con trâu, con bò với con chuột, vì chúng đều là thú bốn chân! Sự khéo léo còn được tô vẽ bằng hình ảnh hài hước: dẫn con chuột béo, tức là lễ vật cũng đàng hoàng, tươm tất để mời dân mời làng, nào có thua kém gì so với các lễ vật khác.

Bằng biện pháp trào phúng sắc sao, các tác giả dân gian đã chi ra sự lúng túng, bao biện của chàng trai. Sự khoe khoang, khoác lác dù có tinh ranh đến đâu, lập luận khôn ngoan đến mây thì cuối cùng sự thật củng bị phơi bày trước con mắt của cô gái.

Như trên đã nói, tuy cô gái chưa nêu ra điều kiện dẫn cưới nhưng chàng trai đã vội vã công bố lễ vật dẫn cưới của mình. Lễ vật lúc đầu thì to tát, sang trọng, càng về sau càng giám và rốt cuộc chỉ là một con chuột béo, làm cho ai ai cũng phải ngơ ngác, ngạc nhiên. Thành ngữ Đầu voi đuôi chuột bắt nguồn tù đây chăng?

Nhưng ngược lại, cô gái trong bài ca dao lại thản nhiên, bình tĩnh, không chê bai, không từ chôi mà còn khen: Chàng dẫn thếem lấy làm sang. Nỡ nào em lại phá ngang như là.., bởi cô gái đã đi guốc vảo bụng người yêu. Cô còn lạ gì tính sĩ diện của chàng trai muôn làm đám cưới thật linh đình trong khi nhà nghèo, tiền nong chẳng có. Cô gái thông minh đã bắt thóp được điếm yêu của chàng trai. Bằng tấm lòng chân thành của người vợ tương lai, cô ôn tổn giãi bày ý định của mình:

>> Xem thêm:  Giới Thiệu Một Phong Trào Của Trường Hoặc Của Lớp Mình

Người ta thách lợn thách gà,

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.

Cưới xin là việc hệ trọng nhất trong đời người con gái, vậy mà cô chi thách có… một nhà khoai lang! kể cũng lạ đời! Nhưng như vậy là đù lắm rồi, vì nhà em nghèo mà nhà anh cũng nghèo. Thái độ không mặc càm mà còn chấp nhận cành nghèo khiến cho lời thách cưới lạ lùng bỗng trở nên dí dỏm, đáng yêu. Hơn thếnữa, lời thách cưới của cô gái còn chứa đựng một triết lí nhân sinh của người lao động thuở xưa: coi tình nghĩa quý hơn của cải.

Cô gái không đả động đến những vật dân cưới như voi, trâu, bò, chuột… mà chàng trai vừa nêu ra. Hai từ đối lập Người ta và Nhà em chi ra hai lôi suy nghĩ khác nhau. Chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên khi cô gái thách cưới bằng một lễ vật độc đáo, ít ai nghĩ đến: một nhà khoai lan<Ị. Cũng hài hước, dí dỏm nhưng chàng trai thì úp úp, mơ mơ; còn cô gái lại thật thà như đếm. Bởi vì lễ vật mà cô thách cưới giản dị quá, tầm thường quá! Câu nói của cô như mở lòng, mở dạ cho chàng trai, khiến chàng thoát khói tình thếphân vân, lúng túng.

Một nhà khoai lang, mới nghe tưởng quá nhiều nhưng thực tế đó là thứ lễ vật xoàng xĩnh, chàng trai có thể kiếm được. Dân tộc ta bao đời nay sống bằng lúa ngô, khoai sắn. Lễ vật tuy bình thường nhưng ý nghĩa thì sâu xa, thấm thìa.

Để cho người yêu an tâm không còn băn khoăn gì nữa, cô gái giải thích cặn kẽ:

Củ to thì để mời làng,

Còn như củ nhò họ hàng ăn chơi.

Làng là các vị chức sắc trong làng xã, mỗi khi có ma chay, cưới hỏi, phải nghĩ đến họ trước tiên. Cô gái đã cẩn thận chọn những củ to để mời làng theo đúng lễ nghi. Còn khoản đãi bà con họ hàng, cô gái dùng những cú nhò hơn. Cùng cảnh ngộ thân cò, thân chim, ai mà không cảm thông, chia sẻ.

Lo cho làng và họ hàng xong, cô gái mới quay về với gia đình mình:

Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!

Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.

Tiếng gọi chàng như thổn thức tận đáy lòng cô gái. Cô muốn có sự đổng cam cộng khổ với người yêu. Cô tính toán ti mi: bao nhiêu củ mẻ sẽ đế cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Thật tội nghiệp nhưng không sao! Trẻ con, rất hổn nhiên, chúng không đòi hỏi gì cả, vì chúng hiếu nhà mình cũng rất nghèo.

Cách suy tính của cô gái thật cụ thể, kĩ càng:

Bao nhiêu củ rim, củ hà,

Để cho con lợn, con gà nó ăn.

Tấm lòng chân thành của cô gái dành cho làng, họ hàng, con trẻ và còn cho cả con lợn, con gà nữa. Dường như cô muôn tất thảy đều vui vẻ chia sẻ với hạnh phúc của cô.

Còn kiếm đâu ra được cô gái chu đáo, đàm đang như cô gái này nửa? Chàng trai chắc không còn băn khoăn, lo lắng. Đám cưới của hai người sẽ thuận buồm xuôi gió, mối tơ vò của chàng trai đã được cô gái nhẹ nhàng, khéo léo tháo gõ, họ thong dong đi vào cuộc sống lứa đôi hạnh phúc trăm năm. Kết thúc cuộc tình thật có hậu!

Nghệ thuật hài hước, trào lộng kết tụ ở việc khắc họa hình ảnh chàng trai cố khoe mẽ để che đậy cảnh nghèo của mình và ở việc miêu ta thái độ chân thật, cởi mờ, nhẹ nhàng kiêu "lạt mềm buộc chặt, nói ngọt lọt đến xương" của cô gái.

Bài ca dao thành công vì đã đôi sánh hai tính cách, hai hướng suy nghĩ khác nhau. Đó là sự đối lập giữa tính sĩ diện, đua đòi theo thói tục lạc hậu và sự sáng suốt, giản dị phù hợp với cuộc sống của quẩn chúng lao động.

Đọc bài ca dao trào lộng, đằng sau tiếng cười hả hê có khi là nước mắt. Với sự thương yêu, đổng cảm trong cuộc sống, thuận vợ thuận chồng trong nếp nghĩ và công việc, những đôi lứa đang yêu nhất định sẽ sống hạnh phúc. Đó cũng là ước mơ của người bình dân tự ngàn xưa.

Dàn ý

1. Mở bài:

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài:

* Lời thách cưới khác thường của cô gái:

- Cô gái nói với người yêu: Nhà em thách cưới một nhà khoai lang, để đáp lại lời giãi bày về chuyện định dẫn cưới bằng những lễ vật to tát, hoặc kì lạ khác thường của chàng trai (voi, trâu, chuột).

- Cái độc đáo chính là ở sự không giống ai:

Người ta thách lợn thách gà,

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.

- Từ thách vốn có nghĩa là yêu cầu, đòi hỏi quá cao về mặt lễ vật. Ở trường hợp này, nó mâu thuẫn với thứ lễ vật quá tầm thường (khoai lang). Có nhiều chăng là ở số lượng quá lớn (một nhà), khiến chàng trai lâm vào tình thế ngạc nhiên và khó xử.

- Để gỡ bí cho người mình yêu, cô gái giải thích cặn kẽ về cách sử dụng số khoai lang thách cưới đó. (Mời làng, mời họ, cho trẻ con ăn, củ nào hư thì cho lợn, cho gà).

* Cảm nghĩ của bản thân trước lời "thách cưới" lạ lùng đó:

- Nó chứng minh rằng cô gái thực sự yêu thương, muốn tiến đến hôn nhân với chàng trai. Tình yêu của cô gái chân thành, trong sáng, không vụ lợi.

- Cô gái thực sự thông minh, hóm hỉnh và đảm đang, tháo vát.

- Cô gái giữ vai trò chủ động trong việc sắp xếp cuộc hôn nhân của mình.

3. Kết bài:

- Nêu cảm nhận chung

Bài mẫu

       Người nông dân xưa gần như suốt đời cơ cực, bần hàn về vật chất, nhưng đời sống tinh thần thì vô cùng phong phú. Các yếu tố lạc quan, hài hước phần nào làm vơi bớt nỗi lo toan cơm áo hằng ngày. Vào những dịp vui vẻ như lễ. Tết, cưới hỏi... thì dân chúng trong làng, trong xóm cùng nhau chia sẻ.

       Chúng ta có thể cảm nhận được tiếng cười lạc quan trong ca dao qua nghệ thuật trào lộng thông minh, hóm hỉnh của người bình dân. Điển hình là bài ca dao sau đây:

- Cưới nàng anh toan dẫn voi,

Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn.

Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,

Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.

Miễn là có thú bốn chân,

Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng.

- Chàng dẫn thế em lấy làm sang,

Nỡ nào em lại phá ngang như là...

Người ta thách lớn thách gà,

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:

Củ to thì để mời làng,

Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.

Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi,

Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.

Bao nhiêu củ rím, củ hà,

Để cho con lợn, con gà nó ăn.

       Có thể coi bài ca dao trên là lời hát đối đáp giữa nam và nữ, mượn hình thức trào lộng, hài hước để thể hiện nội dung trữ tình. Nói khác đi, đây là một cách tỏ tình khá độc đáo và đặc sắc.

       Chàng trai bàn đến chuyện cưới xin, như thế tức là cô gái đã chấp thuận hôn nhân - mục đích cuối cùng của tình yêu. Hôn nhân là việc hệ trọng của đời người, vậy mà ta hãy thử xem chàng trai bàn bạc bằng giọng điệu như thế nào ? Những lễ vật dẫn cưới toàn là những thứ to tát khác thường. Lúc đầu, chàng định dẫn voi cho thiên hạ phải nể sợ, vì từ trước đến nay, chưa ai làm thế cả ; nhưng lại chợt nghĩ ra voi là thứ quốc cấm, nên thôi. Không có voi thì dẫn trâu vậy. Vẫn oai hơn người, vì nhà giàu cũng chỉ nộp lễ vật cho bên đằng gái bằng gà, bằng lợn. Nhưng lại sợ họ hàng nhà em toàn máu hàn, ăn thịt trâu vào đau bụng thì anh mang tiếng. Thật là khó nghĩ! Không nộp thủ bốn chân thì áy náy, chẳng yên lòng được. Thôi thì : Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng(?!) Bất ngờ và ngộ nghĩnh vô cùng, bởi chuột cũng là thú bốn chân!

       Lúc đầu, anh toan dẫn voi, sau đó định dẫn trâu, cuối cùng dừng lại ở việc: Dẫn con chuột béo. Chắc hẳn con chuột này phải to khủng khiếp mới đủ làm tiệc đãi cả làng! Ngẫm kĩ, ẩn chứa đằng sau câu nói hài hước, khoa trương đó là một sự thật phũ phàng: gia cảnh chàng trai quá nghèo, chẳng có gì để mà cưới vợ.

       Cách nói của anh chàng giống hệt như cách nói khoác ở một số địa phương ở Phú Thọ, Hải Phòng, hay như kiểu của bác Ba Phi Nam Bộ. Nói cho vui, nói để gây nên những tràng cười giòn giã, cho quên đi trong phút chốc cải thân phận nghèo hèn của mình.

       Còn cô gái khi nghe người yêu bàn thế thì có thái độ ra sao ? Thông minh, sắc sảo, cô lấy ngay cái độc đáo chưa từng có trong tục dẫn cưới để đối đáp lại:

Người ta thách lợn thách gà,

Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.

       Từ thách nghe mới ghê gớm làm sao! Thách có nghĩa là đòi hỏi quá cao về mặt lễ vật. Thường thì nhà giàu gả con gái mới thách cưới. Về sau, nghĩa của từ này dần dần mang tính phổ thông, dân gian. Điều đáng lưu ý là trong bài ca dao trên, cô gái thay mặt cha mẹ mà thách cưới (Cũng hiếm gặp cô gái nào chủ động và mạnh dạn đến thế!). Xem thử cô thách những gì? Chỉ có một thứ rất bình thường, nếu không nói là tầm thường: khoai lang, nhưng số lượng thì rất nhiều: một nhà (1) Khoai lang là thức ăn quen thuộc của người nghèo và họ có thể tự trồng được, chẳng khó khăn gì. Ta thử hình dung sự lúng túng, băn khoăn của chàng trai trước lời thách cưới cũng thuộc loại chưa từng thấy của người yêu. Hình như cô gái đoán ra điều ấy nên cô giải thích cặn kẽ, cụ thể luôn:

Củ to thì để mời làng,

Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.

       Đúng rồi! Đám cưới thì đương nhiên phải mời các vị chức sắc trong làng cùng họ hàng nội ngoại, bà con thôn xóm. Như thế là hợp lẽ. Còn đám trẻ, cũng phải cho chúng ăn cỗ cưới với chức

Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi,

Để cho lũ trẻ ăn chơi giữ nhà.

       Thế cũng chưa hết được một nhà khoai lang. Chàng đừng lo, hãy nghe em nói tiếp:

Bao nhiêu cũ rím, củ hà,

Để cho con lợn, con gà nó ăn...

       Tính toán đâu ra đấy đến thế thì chàng chỉ có nước... chịu nàng! Ôi chao! Cưới được người vợ tháo vát, đảm đang như nàng thì dẫu có dẫn voi, dẫn trâu thật cũng chưa xứng đáng!

       Nói là nói vậy, chứ cốt lõi của lời thách cưới kì lạ trên chính là thái độ vui vẻ chấp nhận gia cảnh nghèo khó của người yêu. Nhà anh chẳng có gì, nhà em cũng vậy, nhưng ông bà ta đã chẳng từng khẳng định:

Đã yêu quán cũng như nhà,

Lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói xây.

       Hay:

Yêu nhau chẳng lọ chiếu giường,

Dẫu rằng tàu lá che sương cũng tình.

       Rõ ràng, cô gái trân trọng người lao động, trân trọng những gì người lao động làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng một nắng hai sương. Và trên hết là tình yêu trong sáng, bất vụ lợi. Đáng quý biết chừng nào.

Nguồn: Sưu tầm

Loigiaihay.com