Sáng kiến kinh nghiệm về ngữ âm

Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp dạy ngữ âm trong một tiết dạy

Tiếng Anh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc phổ cập Tiếng Anh ở nước ta ngày nay đang dược Đảng và chính phủ dành cho sự quan tâm đặc biệt. » Xem thêm

Chủ đề:

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: PHƢƠNG PHÁP DẠY NGỮ ÂM TRONG MỘT TIẾT DẠY
  2. A.ĐẶT VẤN ĐỀ. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước và hội nhập với cộng đồng quốc tế. Vì vậy con người phải có tri thức đáp ứng những đòi hỏi cao của đất nước, khẩn trương đổi mới giáo dục – đào tạo, trong đó có đổi mới giáo dục. Chúng ta đang ở thế kỉ 21, thế kỉ của khoa học tiên tiến và hiện đại. Vì vậy đòi hỏi con người phải có tri thức, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi ngày càng cao của đất nước. Tiếng Anh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc phổ cập Tiếng Anh ở nước ta ngày nay đang dược Đảng và chính phủ dành cho sự quan tâm đặc biệt. Trong chiến lược dạy học ngoại ngữ việc dạy học Tiếng Anh nói chung, dạy học Tiếng Anh ở trường THCS nói riêng đang đặt ra những nhiệm vụ mới, đòi hỏi người giáo viên phải quán triệt sâu sắc mục đích, đối tượng, nguyên tắc, chương trình dạy và học ngoại ngữ cũng như không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ sư phạm. Hơn thế nữa, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên không thể không có lòng yêu nghề, yêu trò, thường xuyên đầu tư suy nghĩ, đề xuất sáng kiến và những thủ pháp lên lớp hiệu quả. Là một giáo viên dạy ngoaị ngữ tôi muốn trao đổi ở đây những nhận thức. Xuất phát từ đặc trưng bộ môn ngoại ngữ, dạy đầy đủ bốn kĩ năng: Nghe- Nói -Đọc - Viết. Nhưng thực tế phương pháp dạy môn Tiếng Anh trong thời gian gần đây các kĩ năng nghe - viết dược các giáo viên luyện kĩ hơn. Nên tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến kinh nghiệm “Phương pháp dạy ngữ âm trong một tiết học” và một số thủ thuật dạy , kiểm tra ngữ âm thông qua một số dạng bài tập. Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin đề cập đến việc dạy và luyện đọc, phát âm chính xác các âm, các từ, cụm từ
  3. Tiếng Anh để phù hợp với tiến trình phát triển của ngôn ngữ hiện đại. Để đạt được mục đích cuối cùng là giúp học sinh phát âm chuẩn và ngữ điệu của câu. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Tình hình chung: Việc dạy và học trong nhà trường hiện nay, đã có nhiều khởi sắc, điêù kiện cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đã được trang bị đầy đủ hơn, đội ngũ giáo viên chuẩn hoá cao. Đặc biệt phong trào đổi mới phương pháp dạy học được đẩy mạnh, đa số giáo viên có sáng tạo biết lựa chọn phương pháp phù hợp, phát huy được tính tích cực của học sinh. Nhưng thực tế, như chúng ta đã biết trong rất nhiều năm trước đây, theo phương pháp dạy học cổ truyền ở trong lớp thầygiáo là trung tâm, là người nặng nề về truyền đạt kiến thức, chưa rèn luyện được cho học sinh cách học tập tích cực, cách sử dụng kiến thức, cách nắm bắt vấn đề chủ động. Phương pháp giảng chủ yếu như vậy đã ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng nhận thức độc lập của học sinh ở tất cả các môn học nói chung và đặc biệt là môn ngoại ngữ- một môn học có đặc thù riêng là học sinh được rèn luyện độc lập nhiều càng tốt và trong giờ học, học sinh phải được tạo điều kiện sử dụng ngôn ngữ theo chính khả năng của mình. Như vậy, phương pháp đổi mới trong dạy và học ngoại ngữ là phương pháp giúp cho học sinh học tập tích cực. Để đạt được mục đích đó trong một giờ học ngoại ngữ thì giáo viên là người tạo ra cho học sinh thói quen noi theo các chủ điểm tình huống do giáo viên tạo ra cho tiết học diễn ra “ Nhẹ nhàng, sinh động, hiệu quả”. II. Vấn đề cần giải quyết:
  4. Đứng trước một vấn đề dạy và học đó tôi đã suy nghĩ để tìm ra một phương pháp dạy ngữ âm và những việc làm đó tôi đã viết thành phương pháp dạy ngữ âm trong một tiết học. Dạy ngữ âm giúp học sinh tạo ra được không khí học ngoại ngữ, phát âm chuẩn các từ trong bài.Mục đích của việc dạy ngữ âm trong một lớp ngôn ngữ không nhằm làm cho người học có khả năng phát âm tương tự như người bản ngữ vì việc này không thực tế, trừ trường hợp người học có năng khiếu thật đặc biệt và động cơ học rất cao. Mục tiêu dạy ngữ âm là giúp cho người học đạt được một khả năng phát âm đúng ở một mức độ nào đó để có thể truyền đạt được điều họ muốn nói với người khác. III. Phƣơng pháp tiến hành: Nội dung: Các Mác nói:” Con nhện thực hiện thao tác của người thợ dệt, con ong xây tổ sáp làm cho kiến trúc sư phải hổ thẹn. Nhưng một nhà kiến trúc sư có tồi đi chăng nữa thì ngay từ đầu cũng đã khác con ong cừ nhất ở chỗ trước khi dùng sáp xây tổ anh đã tự xây trong đầu mình rôi.”. Con người khác với con vật ở khả năng tư duy và đầu óc suy nghĩ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người để hình thành xã hội. Trong quá trình học Tiếng Anh, bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết luôn luôn được chú ý đến nhiều hơn nhưng phần luyện âm lại là phần quan trọng nhất trong khi giao tiếp hay thực hành các kĩ năng. Theo tôi, có một số yếu tố ảnh hưởng đến việc phát âm Tiếng Anh. a. Sự chuyển di của tiếng mẹ đẻ: Do tiếng mẹ đẻ của người học có ảnh hưởng đến việc phát âm Tiếng Anh nên người dạy cần có một sự hiểu biết nhất định về hệ thống âm của tiếng mẹ đẻ của người học để có thể tiên đoán những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc người học phát âm
  5. Tiếng Anh hầu có thể hướng dẫn và sửa chữa cho người học đọc được các âm khó- phần lớn những âm này không có trong hệ thống âm thanh của tiếng mẹ đẻ. Người Việt học Tiếng Anh thường gặp khó khăn trong việc đọc các âm đầu từ như:/ δ / và / θ /, và các âm cuối từ như: /z/, /s/ và / ή /....các âm / /, / / cũng là những âm khó đối với người Việt học Tiếng Anh. Ngoài ra, trọng âm, ngữ điệu làm thay đổi ngữ nghĩa của từ và câu cũng là những vấn đề mà người việt khong quen trong hệ thống âm vị và ngữ điệu của tiếng việt. b. Tuổi của người học: Người học càng nhỏ tuổi thì càng dễ học nói hơn người lớn tuổi. Theo nghiên cứu, những trẻ em dưới 12 tuổi học nói Tiếng Anh sẽ ít bị ảnh hưởng của giọng nói Tiếng Việt hơn là những người học lớn tuổi hơn. c. Việc tiếp xúc với Tiếng Anh: Cần phải tính đến cả thời gian lẫn mức độ tiếp xúc với Tiếng Anh. Người học càng có nhiều thời gian tiếp xúc với Tiếng Anh thì càng phát âm tốt hơn. Người học cũng sẽ đạt được nhiều tiến bộ hơn nếu được tiếp xúc với mẫu phát âm tốt hoặc được giải thích cặn kẽ về hệ thống âm và cachs phát âm Tiếng Anh. d. Khả năng phát âm bẩm sinh của người học: Nhiều người học có khả năng bẩm sinh trong việc bắt chước và nói được một cách dễ dàng nhưng âm thanh xa lạ với họ. Những người học như thế sẽ tiến bộ nhanh hơn những người không có khả năng tương tự. e. Thái độ và cảm nhận: Thái độ của ngừơi học đối với thứ tiếng đang học cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến việc học phát âm. Thái độ học tập của người học càng tốt thì việc phát âm càng tốt vì họ cố găng bắt chước cho giống cách nói của người bản ngữ.
  6. f. Động cơ học tập của người học và sự quan tâm của họ đối với việc phát âm tốt: Đây là một yếu tố rất quan trọng trong việc dạy phát âm. nếu người học có động cơ phát âm tốt thì họ sẽ đầu tư nhiều thì giờ hơn và nỗ lực hơn trong việc học phát âm. từ đó họ sẽ có nhiều tiến bộ hơn. C. Kinh Nghiệm Phƣơng Pháp Giảng Dạy . I. Tiến hành thực hiện : 1. Khảo sát đối tƣợng cho học sinh : Tôi lấy đối tượng là học sinh lớp 5 do tôi trực tiếp giảng dạy để nghiên cứu và làm chứng minh . Ban đầu theo dõi tình hình học tập của lớp tôi thấy phần lớn các em rất ngại đọc , nếu đọc được thì còn rất nhiều sai sót và kết quả như sau : - Đối tượng học sinh lớp 5B . - Tổng số : 60 học sinh . - Chất lượng : Giỏi : 15% Khá : 50% TB : 35% 2. Phƣơng pháp thực hiện : Do đọc không được từ đó nên các em có tâm lý nặng nề không muốn đọc . Là giáo viên phụ trách bộ môn tôi động viên , khuyến khích tạo không khí thoải mái và đặc biệt tôi dung các hình ảnh dụng cụ trực quan hoặc hình ảnh ngộ nghĩnh đưa ra từ hoặc câu tạo cho học sinh thích thú học tập và thích đọc hơn . a, Nguyên âm – Phụ âm
  7. Chỉ cho học sinh nắm vững nguyên âm , phụ âm và một số cách đọc của một số từ khi đứng trước nguyên âm . Eg : The pen / δәpen / Khi phiên âm có dấu / : / thì đọc kéo dài . / I / đọc ngắn như I của Tiếng Việt . / I / đọc kéo dài ii . / ^ / đọc ă và ơ . / δ / đặt đầu lưỡi giữa hai hàm răng . b, Dấu nhấn : Hướng dẫn học sinh cách đọc dấu nhấn – tức âm đó được đọc mạnh hơn . Dấu nhấn được dùng khi từ đó có hơn một âm tiết . Eg : hello / hә‟lәu /  Dấu nhấn thứ nhất và dấu nhấn thứ 2 . Eg : Notebook / „nәutbuk /  Dấu nhấn trong cụm từ và câu . Eg : listen and repeat / „lisn en(d) ri‟pi:t / c, Ngữ điệu Ngữ điệu là “ âm nhạc “ của ngôn ngữ chính là âm lên và xuống khi chúng ta nói . Ngữ điệu rất quan trọng khi chúng ta diễn đạt ngữ nghĩa , đặc biệt trong việc tả thái độ của chúng ta ( ngạc nhiên , vui buồn ….) Hướng dẫn học sinh nhận thức được hai ngữ điệu cơ bản : + Đọc lên giọng : được dùng trong câu hỏi : Yes / No questions : - Is your book big ? - Do you have pets ? + Đọc xuống giọng : được dùng trong câu nói thông thường , mệnh lệnh và câu hỏi : WH - question: - What is your name ?
  8. - My name is Nam . d, Cách đọc khi thêm “s” và “es” : + Cách đọc / iz / : Nếu danh từ số ít tận cùng bằng chữ s , x , sh , ch , z , thì số nhiều thêm es đọc / iz / . Nếu danh từ số ít tận cùng bằng chữ ce , se , ge , thì số nhiều thêm s đọc / iz / . Eg : finish / „finiſ / ; finishes / „finiſiz / Sentence / sentәns / ; sentences / sentәnsiz / + Cách đọc / s / : Những chữ có tận cùng là p , t , k thì đọc s Eg : A book / buk / ; books / buks / + Cách đọc / z / : Những từ có tận cùng bằng a , e , i , o , u , b , v thì đọc /z / Eg : please / pli:z / II. Kĩ thuật rèn luyện: 1. Lặp lại từ: Học sinh nghe và lặp lại từ theo mẫu ( giáo viên / băng tiếng) Ex: luyện Âm / i/ và / e /. T: Listen and repeat: Hill Ss: Hill T: Tell Ss: Tell 2. Lặp lại câu: Học sinh lặp lại một câu có những từ chứa âm cần luyện. Ex: / s /, /  / , và / z/
  9. T: : Listen and repeat: She sells seashells by the seashore. Ss: She sells seashells by the seashore. Ex: / i / , and / i:/ T: Good. Now once more. Don’t sit on that seat. Ss: Don’t sit on that seat. T: Correct once more. Don‟t ( sleep/ slip) on the floor. Ss: Don’t ( sleep/ slip) on the floor. 3. Cặp tối thiểu ( minimal pair) Giáo viên cần giải thích cho học sinh cặp tối thiểu là hai từ chỉ chứa một âm. âm khác nhau có thể nằm ở đầu từ như „hat- bat’, hay giữa từ như „ sing- song‟, và cuối từ như „thin- thing’, .... cặp tối thiểu thường được dùng để đối chiếu sự khác nhau giữa các nguyên âm và phụ âm. Giáo viên đọc các cặp tối thiểu, sau đó viết lên bảng thành hai cột. A. B. will well bill bell hill tell T: Listen: Will.....Well.......Bill.......Bell.......Hill.....Tell........ Now repeat. Will.... Ss: will.... T: Well.......... Ss: Well..... Sau khi vừa chỉ lên bảng vừa đọc hết các từ giáo viên nói T: Now listen and tell me the number. Will....Which number? One or Two Ss: One T: That‟s correct. Now once more. Tell....
  10. Ss: Number two .... 4. Điền từ: Giáo viên nói một vài cụm từ hay câu còn thiếu một /hai từ, học sinh đoán và bổ xung từ còn thiếu có âm đang rèn luyện. Ex: Để luyện hai âm /ei/ and /æ/, giáo viên lần lượt nói một vài câu và cho học sinh đoán và bổ xung từ còn thiếu có âm ei/ hoặc /æ/, T: He likes to ..... games very much. which word is missing? Ss: play T: Good now this time words. Listen . Black and white...... Which words are missing? Ss: Make and gray T: well done. once more. Listen, After April comes Ss: May... 5. Làm câu: Giáo viên viết một số từ lên bảng, học sinh nói những câu có chứa từ trên bảng. Các từ này có âm đang rèn luyện hay có âm dễ gây nhầm lẫn. Ex: Để rèn luyện âm /e/ and /æ/, giáo viên viết lên bảng hai cột. Một cột gồm các danh từ, một cột gồm các tính từ có những âm đang rèn luyện học sinh nhìn các từ cho sẵn và làm ba câu có các từ này. 1. 2. red pen yellow cat sad hat black hen giáo viên có thể đưa ra mẫu: He „s got a black cat. sau đó học sinh có thể đưa ra một số câu. She‟s wearing a black hat. He‟ s got a red pen.
  11. It‟s a sad hen. Etc... III. Kết quả thu đƣợc . Sau một thời gian áp dụng phương pháp mới , ngoài việc hướng dẫn cách đọc , luôn tạo cho học sinh tính chuyên cần , siêng năng khi đọc Tiếng Anh , việc học tập của các em đã tăng đáng kể . Phần lớn các em đều thích đọc và học Tiếng Anh với kết quả như sau : - Đối tượng học sinh : Lớp 5B - Tổng số : 60 học sinh - Chất lượng : Giỏi : 33,33% Khá : 50% TB : 16,67% D. Kết luận Qua quá trình giảng dạy , tôi đúc kết được một số kinh nghiệm nhỏ và kết quả thu được rất đáng mừng . Số học sinh đọc chậm , đọc kém trong lớp đã giảm xuống rất nhiều chứng tỏ ý thức học tập của các em rất tốt . Những giờ học Tiếng Anh học rất hăng say , không nhứng đọc to , rõ rang mà nhiều em luyện giọng rất hay . Và bước đầu tiên vào học môn Tiếng Anh đã khởi sắc .Cũng là yếu tố quan trọng để các em học ở phần các chương trình khác nhau . Trên đây là những kinh nghiệm phương pháp hướng dẫn tốt nhất cách phát âm trong tiếng Anh mà tôi mạnh dạn đưa ra . Thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề rất được quan tâm trong Tiếng Anh phổ thông . Rất mong nhận
  12. được những ý kiến đóng góp của các thầy , cô để trau dồi chuyên môn hơn trong quá trình giảng dạy . Hà Nội , ngày 30 tháng 3 năm 2011 Người viết Nguyễn Thị Ngọc Thúy

SKKN Một số phương pháp dạy Ngữ âm - từ vựng để phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 28 trang )




SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY NGỮ ÂM - TỪ VỰNG ĐỂ PHÁT
TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH”


- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Trong các giai đoạn phát triển của thế giới, ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp hình thành và gắn kết mối quan hệ
ngoại giao đa quốc gia. Tiếng Anh thực sự đã và đang là một ngôn ngữ không chỉ
trong lĩnh vực giao tiếp quốc tế mà còn là ngôn ngữ của nhiều ngành khoa học,
công nghệ thông tin, văn hóa xã hội, du lịch , thương mại . Xác định được tầm
quan trọng của ngoại ngữ này, ngành giáo dục Việt Nam rất chú trọng việc dạy
tiếng Anh ở tất cả các bậc học. Như chúng ta đã biết, học ngoại ngữ bao gồm sự
phối hợp của bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết và sản phẩm trực tiếp của quá trình
học là kỹ năng sản sinh thông qua nói, viết. Theo quan điểm biên soạn của chương
trình, sách tiếng Anh chú trọng phát triển các kỹ năng ngôn ngữ nhất là kỹ năng
giao tiếp, lấy giao tiếp là sản phẩm đích, tiếng Anh là ngôn ngữ đích (target
language) của quá trình giáo dục. Mục tiêu này được khẳng định về độ quan trọng
trong nhiều văn bản, trong các lớp tập huấn cho giáo viên về phương pháp dạy
ngoại ngữ nhằm “rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn” (Trích:
Quyết định số 16/2006/QĐ- BGD ĐT ngày 05/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT
về Đổi mới phương pháp dạy học chương trình giáo dục phổ thông).



Tuy nhiên giữa l ý thuyết về dạy kỹ năng nói, kỹ năng giao tiếp và khả năng
vận dụng tiếng Anh vào giao tiếp của học sinh Việt Nam nói chung và học sinh
tỉnh Lai Châu nói riêng là một vấn đề còn nhiều hạn chế. Phải thẳng thắn nhìn
nhận rằng việc dạy ngữ âm, nhất là trọng âm của từ, ngữ điệu của câu, kết hợp đưa
từ vựng - ngữ pháp với ngữ âm - ngữ điệu vào trong giao tiếp không chỉ của học
sinh mà cả đội ngũ giáo viên còn yếu. Thực trạng này có thể thấy rõ ở trường
THPT Than Uyên, nơi tôi đã gắn bó hơn mười năm. Đa số học sinh yếu về ngữ
pháp, lười học từ vựng, cấu trúc, ngại sử dụng tiếng Anh trên lớp dẫn tới kết quả
học tập nói chung và điểm kiểm tra các nội dung về từ vựng, kiểm tra kỹ năng
ngôn ngữ còn thấp.


- 2 -
Ý thức được nguyên nhân của kết quả này, với sự tâm huyết của mình
dành cho nghề giáo cùng tình yêu với phân môn Tiếng Anh, tôi muốn dần dần hình
thành cho học sinh của mình thói quen, kỹ năng học và sự tự tin hơn khi sử dụng
tiếng Anh trong cuộc sống sinh hoạt, đặc biệt là khi các em có cơ hội tiếp xúc với
người nước ngoài. Điều này lôi cuốn tôi tiếp tục nghiên cứu và phát triển đề tài
mình đã thực hiện năm 2011 với tiêu đề Một số phương pháp dạy Ngữ âm- từ vựng
để phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh trường THPT Than Uyên.

II. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Phạm vi tôi đưa vào nghiên cứu trong đề tài này được thực hiện trong năm
học 2012 -2013 với học sinh trường THPT Than Uyên, nơi mà môi trường sử dụng
tiếng Anh trong giao tiếp gần như không có, cơ hội tiếp xúc và sử dụng Anh ngữ
với người bản địa rất ít, bên cạnh đó kiến thức, kỹ năng và quan trọng hơn cả là
tâm l ý ngại giao tiếp làm cho việc đưa tiếng Anh vào thực tế còn nhiều hạn chế.
Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học đồng thời làm cho


mục tiêu dạy học ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp khó có thể thực hiện được.
Đề tài này có thể được triển khai áp dụng cho cả các trường THPT và THCS trong
toàn tỉnh.
Đối tượng nghiên cứu trọng tâm của đề tài nhằm chỉ ra một số phương pháp
dạy ngữ âm- từ vựng giúp phát triển kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh cho học sinh
trường trung học phổ thông Than Uyên.

III. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nhằm đưa ra một số giải pháp giúp học sinh vận dụng kiến thức
ngữ pháp, từ vựng - ngữ âm vào trong giao tiếp thông thường, từ đó hình thành
kỹ năng nói, kỹ năng giao tiếp cho bản thân, giúp các em dần nâng cao kết quả
học tập và cải thiện điểm thi trong phần ngôn ngữ giao tiếp nói riêng và điểm
toàn bài thi tốt nghiệp nói chung. Đồng thời tôi cũng mong muốn được trao đổi,
chia sẻ một vài phương pháp về hình thành kỹ năng giao tiếp cho học sinh với
các bạn đồng nghiệp.




- 3 -
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Trước đây đã có một số đề tài, sáng kiến kinh nghiệm của các tác giả trong
và ngoài tỉnh nghiên cứu về phương pháp dạy ngữ âm, từ vựng hoặc phương pháp
phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh. Tuy nhiên hầu hết các sáng
kiến kinh nghiệm này mới chỉ đề cập đến một lĩnh vực riêng lẻ là ngữ âm, từ vựng
hoặc kỹ năng giao tiếp và cũng chưa đưa ra được nhiều phương pháp khác nhau
trong quá trình giảng dạy. Để tích hợp các nội dung và khắc phục những hạn chế
trên, đề tài của tôi đã tóm lược lý thuyết về sử dụng ngữ âm – từ vựng trong việc
dạy nói, tăng cường các thủ thuật dạy ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp. Đề


tài đồng thời cũng khái quát sơ qua về ba mức độ thường gặp trong nghĩa của từ
(Positive & Negative meaning, Neutral), cách cơ bản trong việc nhấn trọng âm của
câu để giúp học sinh có những nhận biết ban đầu về cách chọn mức độ dùng từ và
sử dụng trọng âm, ngữ điệu câu trong giao tiếp một cách có hiệu quả. Đặc biệt, đề
tài chỉ rõ một số phương pháp kết hợp dạy ngữ âm – từ vựng để phát triển kỹ năng
giao tiếp cho học sinh, đây là một trong những mảng kiến thức khó và phức tạp.
Đó là điểm mới của đề tài so với những nghiên cứu trước đây, đề tài lần đầu tiên
được nghiên cứu và áp dụng tại trường THPT Than Uyên.
















- 4 -
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Ngôn ngữ, một sản phẩm trí tuệ tuyệt vời của loài người, đã tồn tại dưới
hình thức âm thanh ngay từ khi mới xuất hiện và cũng nhờ có ngôn ngữ mà con
người giao tiếp được với nhau. Có rất nhiều sinh ngữ (Living languges) tồn tại trên


thế giới và tiếng Anh được chọn là một trong những ngôn ngữ giao tiếp quốc tế, do
đó nó có phạm vi sử dụng rộng khắp thế giới. Xu hướng dạy tiếng Anh hiện nay là
nhằm đạt được mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp cho người học
(communicative competence). Vì thế, nếu học sinh chỉ mới có kiến thức nền về
ngữ pháp (grammatical) và từ vựng (lexical) thì cũng chưa chắc đã có kỹ năng tốt
về sử dụng kiến thức đó trong giao tiếp vì giao tiếp đòi hỏi con người phải có thêm
năng lực về sử dụng ngôn ngữ (linguistic competence). Ngay từ khi mới xuất hiện,
ngôn ngữ đã tồn tại dưới hình thức âm thanh. Con người giao tiếp được với nhau
chính là nhờ hình thức vật chất này. Mặt âm thanh đã làm nên tính chất hiện thực
của ngôn ngữ. Nói đến ngôn ngữ là nói đến ngôn ngữ bằng âm thanh và hình thức
âm thanh của ngôn ngữ được gọi là ngữ âm, ngữ âm là cái vỏ vật chất của ngôn
ngữ, là hình thức tồn tại của ngôn ngữ.

“Ngữ âm” là âm thanh do bộ máy phát âm của con người tạo ra có thể biểu
đạt một ý nghĩa nhất định nào đó, không thể xem ngữ âm là vật chất tự nhiên thuần
tuý. Ngữ âm là hệ thống ký hiệu ghi lại hoạt động tư duy một cách trực tiếp.

“Từ vựng” (lexicology) được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương
đương với từ trong ngôn ngữ. Các bộ môn từ vựng học, ngữ âm học, và ngữ pháp
học là những bộ môn tương đối độc lập. Tuy vậy, chúng không tách biệt nhau hoàn
toàn mà vẫn có liên quan đến nhau.

“Giao tiếp” là quá trình xác lập và vận hành các quan hệ giữa người với
người nhằm hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thực hiện công việc giao tiếp dưới nhiều
hình thức khác nhau: giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với một nhóm
người .Có thể nói, giao tiếp là cầu nối gắn kết các mối quan hệ.




- 5 -
“Kỹ năng giao tiếp” là một tập hợp các quy tắc, cách đối đáp, ứng xử trong
thực tế sinh hoạt hàng ngày giúp con người đạt được hiệu quả nhất định trong một
cuộc nói chuyện, từ đó có thể khẳng định thiếu kỹ năng này, giao tiếp sẽ không đạt
hiệu quả như mong muốn.

Từ l ý luận trên ta thấy có mối quan hệ giữa ngữ âm và từ vựng, giữa ngôn
ngữ và giao tiếp. Ngữ âm và từ vựng giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ uyển chuyển
hơn, ngôn ngữ giúp cho việc giao tiếp dễ dàng hơn, giao tiếp nhiều giúp sử dụng
ngôn ngữ linh hoạt hơn. Do đó, học ngoại ngữ là học cách nói ngôn ngữ đó, biến
nó trở thành ngôn ngữ sống, sử dụng nó một cách tự nhiên (native) và tự động
(automatic).
II. Thực trạng của vấn đề
Thông thường khi dạy ngoại ngữ, giáo viên thường chú trọng dạy ngữ pháp,
cấu trúc rồi đến từ vựng. Tuy nhiên, ngữ pháp không phải là kết quả cuối cùng của
quá trình học ngôn ngữ mà ngữ pháp là công cụ giúp người học giao tiếp hiệu quả
hơn. Vì thế, trong cả các tiết dạy kỹ năng nói bao giờ cũng có phần dành cho việc
dạy nhanh các cấu trúc ngữ pháp, giới thiệu từ vựng phục vụ cho bài học. Song
trong thực tế, giữa tiếng Anh nói (spoken English) và tiếng Anh viết (written
English) có khá nhiều khác biệt. Tiếng Anh viết đòi hỏi sự chính xác về mặt câu
từ, cấu trúc, trái lại tiếng Anh nói đặc biệt là tiếng Anh trong giao tiếp cần sự linh
hoạt, gần gũi trong ngôn từ.

Thực tế, trong quá trình học ngoại ngữ, học sinh chú trọng vào học ngữ pháp
vì chủ yếu các bài kiểm tra đòi hỏi việc vận dụng ngữ pháp, các bài thi không có
hoặc gần đây có rất ít các bài tập yêu cầu sử dụng ngôn ngữ giao tiếp dẫn tới việc
học tiếng Anh và vận dụng nó vào thực tế sử dụng chưa được cả giáo viên và học
sinh chú trọng kết quả là lâu dần các em mất đi khả năng giao tiếp. Để đánh giá cụ
thể chất lượng học tập của học sinh trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi
đã thực hiện ba bài kiểm tra khảo sát đầu năm ở lớp 10A1 và 12A1 với 54 học


sinh, kết quả thu được như sau: (Các phần kiểm tra được quy ra thang điểm 10)




- 6 -
Trước khi áp dụng SKKN


Kiến thức
kiểm tra
HS đạt
điểm
9-10
HS đạt
điểm
7-8
HS đạt
điểm
5-6
HS đạt
điểm
3-4
HS đạt
điểm
0-2
Số học sinh
đạt điểm từ 5
trở lên
Từ vựng


(5 câu)
0 7 12 24 11
19 HS = 35.0%

Ngữ âm
(5 câu)
0 5 10 21 18
15 HS = 27.8%

Ngôn ngữ
giao tiếp
(5 câu)
0 5 8 15 26
13 HS =24.1%


Bên cạnh đó, tôi cũng đã phân tích và nhận ra sự hạn chế về khả năng giao
tiếp tiếng Anh của học sinh do một số nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân khách quan:
+ Môi trường sống, môi trường học tập không tạo ra động lực phải giao tiếp
bằng Anh ngữ.
+ Cơ hội để tiếp xúc và sử dụng Tiếng Anh với người nước ngoài ít hoặc
thậm chí không có dẫn tới sự mai một về kiến thức giao tiếp.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Hầu hết học sinh kiến thức ngữ pháp yếu, không hệ thống, từ vựng không
đủ để diễn đạt ý kiến.
+ Các em thiếu kiến thức về giao tiếp Tiếng Anh thông dụng.
+ Chưa mạnh dạn, còn rụt rè trong sử dụng Tiếng Anh ngay cả khi thực
hành trên lớp với cô giáo và các bạn.
+ Do phương pháp dạy ngữ âm, từ vựng, giao tiếp của giáo viên còn hạn


chế. Giáo viên chưa tạo được môi trường nói tiếng Anh cho học sinh nhất là trong
các tiết học ngôn ngữ thể hiện qua một số việc cụ thể như: giáo viên sử dụng tiếng
Việt nhiều trong quá trình giao tiếp trên lớp, chưa tạo thói quen nghe và nói các
ngôn ngữ lớp học (Classroom languages) cho học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên



- 7 -
chưa đưa ra các bài tập dạy ngữ âm - từ vựng - giao tiếp mà chỉ nặng về dạy các
phần riêng lẻ, thiếu tính gắn kết, thiếu sự kích thích hứng thú học tập cho học sinh
Tất cả các nguyên nhân cả khách quan và chủ quan trên dẫn tới kết quả học
tập nói chung và kiến thức về ngữ âm – từ vựng – giao tiếp của học sinh trường
THPT Than Uyên còn thấp.
Từ những yếu tố trên cho thấy việc rèn kỹ năng nói và kỹ năng giao tiếp
bằng ngoại ngữ cho học sinh là một vấn đề nan giải. Song, trong một số nguyên
nhân, giáo viên và học sinh có thể dần dần khắc phục, mà phần quyết định xuất
phát từ người dạy. Do đó, trong quá trình dạy học giáo viên phải thực hiện một số
việc cần thiết với phân môn này đồng thời tích cực sáng tạo trong phương pháp và
linh hoạt trong sử dụng phương pháp.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Như đã trình bày ở trên, thực trạng về việc sử dụng tiếng Anh trong các tiết
học kỹ năng nói riêng và trong giao tiếp nói chung còn nhiều tồn tại ở tất cả các
bậc học. Để cải thiện tình trạng này, tôi xin trình bày một số việc bản thân đã thực
hiện và số thủ thuật kết hợp dạy từ vựng - ngữ âm trong dạy kỹ năng nói theo
đường hướng giao tiếp.
1. Tạo môi trường nói tiếng Anh trong lớp học:
Ngay từ buổi học đầu tiên, giáo viên cần tạo cho học sinh có được không khí
của tiết học ngoại ngữ nhất là đối với học sinh đầu cấp thông qua cách chào hỏi, tự
giới thiệu về bản thân. Thường xuyên sử dụng tiếng Anh trong giờ dạy, đặc biệt là
khi đưa yêu cầu, nhận xét bài hoặc khen ngợi học sinh. Tất nhiên việc sử dụng


tiếng Việt để giảng giải là điều không thể loại trừ song cần cố gắng sử dụng Anh
ngữ càng nhiều càng tốt nhưng ngôn ngữ sử dụng phải có tác dụng trong việc hiểu
bài và ứng dụng thực tiễn của học sinh. Nếu lần đầu nói, học sinh chưa hiểu, giáo
viên có thể kết hợp song ngữ Anh- Việt, lặp lại điều này trong lần thứ 2, thứ 3
nhưng phải rèn cho học sinh ý thức nghe và nhớ vì cách học tốt nhất cho bất kỳ
một ngoại ngữ nào là thông qua truyền khẩu. Hãy hình thành cho học sinh thói
quen sử dụng một số ngôn ngữ trong lớp học (classroom languages). Các ngôn ngữ



- 8 -
lớp học dưới đây giáo viên và học sinh có thể sử dụng thường xuyên trong tất cả
các bài học.
Things you might say to your teacher

Things your teacher might say to you

- May I come in?/ May I go out?
- I’m sorry, I don’t understand.
- Pardon?
- What does ”chair” mean?
- How do you say ”ghế ” in English?
- How do you spell that/ this word?
- How do you pronounce this word?
- It this correct?
- What is the past of ”go”?
- What do we have to do?
- Thank you/Thank so much
- Come in/ Go out, please.
- Open you book at page 20.


- Listen to me, please.
- Answer my questions.
- Make the questions
- Write the answers.
- Work individually/in pairs/in groups.
- Listen and repeat.
- Copy this into your notebooks.
- The homework is exercise 1, page 8
- Good!/ Very good! Well done!

Việc yêu cầu học sinh phải sử dụng các classroom languages sẽ tạo cho các
em thói quen và sự mạnh dạn khi nói tiếng Anh với cô giáo, tạo môi trường nói
tiếng Anh trong lớp học và là động lực để các em khi đã quen thuộc với những câu
này sẽ muốn biết thêm những câu giao tiếp khác để không chỉ thực hiện với giáo
viên mà còn với bạn bè.
2. Tạo không khí thân thiện, gần gũi trong lớp học:
Một trong những yếu tố giúp giờ học thành công là bầu không khí của lớp
học. Một tiết học không thể hiệu quả khi học sinh và giáo viên làm việc với sự
căng thẳng, quá trang nghiêm, nhất là trong các tiết nói. Do đó, trong mọi giờ học
giáo viên luôn phải là người khơi được hứng thú muốn học, muốn giao tiếp cho
học sinh. Có một số nguyên tắc nên tuân theo trong dạy kỹ năng nói:
- Đừng căng thẳng, gò ép các em phải nói đúng như ý đồ giáo viên thiết kế.
Hãy để các em diễn đạt theo ý của mình, sau đó giáo viên nhận xét, góp ý.
- Không ngắt lời khi học sinh đang trình bày một vấn đề, điều này làm cho
các em giảm độ hứng thú và tập trung trong quá trình nói.



- 9 -
- Hãy thường xuyên động viên học sinh bằng những từ khen ngợi ngắn gọn


(Good! Excellent ! ).
- Tạo không khí thoải mái, thư giãn, gần gũi trong giờ học bằng các trò chơi
nhỏ có liên quan đến nội dung bài. Sau 1 nhiệm vụ (Task) của tiết học giáo viên có
thể đưa ra yêu cầu với học sinh: “Now, students. You did task 1 very well and I
give you three minutes off. Do you like this?/ Do you want to play a small game?”
Điều này không chỉ tạo sự thoải mái cho học sinh mà còn giúp tăng tính giao tiếp
giữa giáo viên với học sinh đồng thời luyện kỹ năng nghe và hình thành phản xạ
đáp lời sau khi tiếp nhận thông tin được truyền đi từ người nói.
3. Dạy từ vựng và giới thiệu các âm mang tính khái quát:
- Nội dung này nên áp dụng khi dạy cách phát âm một số nguyên âm ở các
bài Language Focus.
Ví dụ 1: Khi giới thiệu cách phát âm của âm /a/ trong Unit 2 – School talks:
Language Focus (Tiếng Anh 10), giáo viên có thể kết hợp với trò chơi Pyramid để
huy động vốn từ của học sinh và qua đó giới thiệu cách dạng phát âm với nguyên
âm này. Cách thực hiện: giáo viên đưa từ đầu tiên, yêu cầu học sinh đặt từ tiếp theo
với chữ cái đầu bắt đầu bằng “a” và từ ở dưới nhiều hơn từ trên 1 chữ cái.










- “Kim tự tháp” (Pyramid) mà học sinh lớp 10A1 đã “xây” được như sau:






- 10 -
A
A N
A N D
A U N T
A C T O R
A P P L E S
A I R P O R T
A L P H A B E T
A R C H I T E C T

Qua kim tự tháp này, ngoài bổ sung từ vựng cho học sinh, giáo viên có thể
giới thiệu cách cách phát âm của nguyên âm “a” như / α /, / α: /, /ə / , /æ/ Giáo
viên tiếp tục thay đổi chữ cái đầu khi giới thiệu các âm khác ở các tiết Language
Focus khác trong chương trình.
Ví dụ 2: Khi giới thiệu từ vựng kết hợp dạy cách phát âm của một số
nguyên âm, giáo viên có thể thiết kế trò chơi “A spelling stair”. Trò chơi được thực
hiện như sau (áp dụng trong Unit 7- The mass media - Language Focus/ Tiếng Anh
10). Cách thực hiện: Giáo viên thiết kế hình thang, nêu luật chơi hoặc cho chữ cái
đầu của mỗi từ trong từng bậc thang, yêu cầu học sinh hoàn thiện.



















- 11 -
Tôi đã áp dụng bậc thang này khi giới thiệu cách phát âm các nguyên âm
/ei/ , /ai/ và âm /ɔi/. Để làm nổi bật âm trong từ mà mình muốn giới thiệu, giáo
viên đặt màu khác ở âm đó để học sinh dễ theo dõi. Trong bài tiếp theo (Unit 9-
Tiếng Anh 10 ) giáo viên có thể thiết kế lại bậc thang cho phù hợp với các nguyên
âm khác, hoặc thiết kế không nhằm mục đích dạy ngữ âm mà chỉ tập chung dạy từ
vựng
C

L
I
M B
U


Y
E A R
A
D
I



O I
L
I
K


E N J
O Y

Ví dụ 3: Cũng với dạng bài giới thiệu từ vựng kết hợp dạy cách phát âm của
một số từ có 2 nguyên âm liền nhau, giáo viên còn có thể áp dụng trò chơi “Add
consonants”. Trò chơi này thực hiện theo nhóm hoặc cả lớp đều có tác dụng rất tốt
trong việc tạo hứng thú, khơi dạy vốn từ và khắc sâu cách phát âm của một số
nguyên âm đôi. Giáo viên đưa 2 chữ cái (là nguyên âm) yêu cầu học sinh bổ sung
những chữ cái phụ âm cần thiết để tạo nên từ mới. Ai viết được nhiều từ hơn là
người chiến thắng.
Minh họa 1:
A I
T A I L
P A I L
P A I N



- 12 -
Minh họa 2:
O O
G O O D
F O O T


G O O S E

Ví dụ 4: Một thủ thuật giới thiệu từ vựng- ngữ âm cho tổng hợp nguyên âm
đơn và đôi có thể được giáo viên đưa vào sử dụng cả chương trình 10, 11 là trò
chơi “Angram”(Phép đảo chữ cái). Trò chơi này sử dụng những từ mà khi thay đổi
trật tự chữ cái của chúng sẽ tạo ra từ mới. Trò chơi có thể thực hiện theo đội, trong
khoảng thời gian từ 1-2 phút, đội nào tìm được nhiều từ nhất theo quy định nêu
trên là đội chiến thắng. (Áp dụng cho Unit 14- The World Cup- Tiếng Anh 10 và
Unit 13- The 22
nd
Sea Games- Tiếng Anh 12)
First word Angram
ten net
saw was
tea eat
team meat
tale late
East seat
race care
post stop

4. Dạy từ vựng kết hợp với dạy cách phát âm chuẩn xác:
- Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình học ngoại ngữ khi giới thiệu
một từ mới ngoài cách giới thiệu nghĩa, nhất thiết phải hướng dẫn học sinh cách
đọc, lưu ý với học sinh một số trường hợp phát âm khác từ sẽ có nghĩa khác đi.
Ví dụ: desert /'dezət/ - sa mạc và desert /di’:zət/ - món tráng miệng
(Unit 9 - Deserts - Tiếng Anh 12)




- 13 -
5. Thường xuyên huy động vốn từ của học sinh theo chủ đề để tránh
tình trạng từ vựng “chết”:
- Quả thực nếu học sinh không sử dụng chắc chắn nhiều từ nhiều sẽ bị lãng
quên và lại trở thành từ mới. Vì thế hãy cố gắng gợi lại kiến thức về từ, cấu trúc từ
để hạn chế việc này. Giáo viên có thể sử dụng thủ thuật “Vocabulary tree” cho bài
tập dạng huy động vốn từ. (Hình minh họa H.1 phần phụ lục- Có thể thay thế và áp
dụng linh hoạt cho các phần Writing trong Unit 8- Tiếng Anh 10, Unit 10 - Tiếng
Anh 11 và Unit 14- Tiếng Anh 12 )
6. Để thực hiện việc dạy ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp, cần chú
trọng dạy trọng âm từ, trọng âm câu và ngữ điệu của câu:
- Trong giao tiếp, trọng âm, ngữ điệu rất quan trọng trong việc biểu đạt cảm
xúc, ý đồ của người nói. Cùng một câu nhưng với ngữ điệu lên, hoặc trọng âm đặt
vào từ khác sẽ hàm ý khác với câu có ngữ điệu xuống hoặc tập trung trọng âm vào
từ khác. Nếu đối tượng học sinh khá, giáo viên có thể giới thiệu Hình thang
nguyên âm (Cardinal vowel) để học sinh nhận biết được khu vực đặt âm, độ cao
của âm, từ đó có thể bật âm chính xác trong các từ riêng lẻ.
Cardinal vowel
front neutral back
high


mid

low

Trong đó: high- mid- low dùng để miêu tả độ cao của lưỡi còn front - mid -
back dùng để miêu tả vị trí nào của lưỡi được sử dụng để phát ra âm đó.
Ví dụ, qua hình thang trên, ta có thể miêu tả âm /ɔ/ qua 3 tiêu chí



æ
a:
ɔ:
u: i:
З:
i
ə


ɔ

ʊ

Λ



- 14 -
back
ɔ very low
short
- Ngoài hướng dẫn học sinh quy tắc trọng âm của từ (nội dung này đã được
tôi trình bày tại mục 4- trang 12 SKKN: Một số phương pháp dạy ngữ âm- từ vựng
thực hiện năm 2011 ), cần lưu ý các em các dạng âm mạnh, âm yếu (weak form -
strong form) ngữ điệu lên - xuống (rising - falling tune) để khi giao tiếp các em sử
dụng ngữ điệu trong giọng nói một cách chính xác và hiệu quả.
+ Thông thường ngữ điệu xuống hay gặp trong các câu trần thuật, câu phủ
định, thức mệnh lệnh và các Wh- questions.
+ Ngữ điệu lên thường dùng trong các câu hỏi dạng Yes/ No questions. Kết


hợp ngữ điệu lên - xuống (rising - falling tune) luôn thấy trong các câu có sự lựa
chọn (OR) và câu liệt kê (AND)
Ví dụ 1:
Would you like some TEA or COFFEE ?
Ví dụ 2:
I’d like some butter, cheese, apples AND milk.
- Bên cạnh đó, vị trí trọng âm trong câu cũng rất quan trọng. Sau đây, tôi xin
trình bày một ví dụ về trọng âm trong câu.

∙ ∙ ∙

I could hardly believe my eyes.


Function words Content words (Lexical words)
(Từ có chức năng) (Từ có chứa nội dung)
Từ ví dụ trên có thể phân tích và rút ra:
+ Các từ có chứa nội dung gồm: danh từ (noun), động từ chính (main verb),
tính từ (adjective), trạng từ (adverb). Từ để hỏi (question word) và đại từ chỉ định



- 15 -
(demonstrative) cũng thuộc nhóm này. Thông thường, các từ có chứa nội dung
luôn chứa trọng âm.
+ Các từ có chức năng bao gồm: đại từ (pronoun), trợ động từ (auxiliary).
Mạo từ (article), giới từ (article), đại từ quan hệ (relative pronoun) thường nằm
trong nhóm này.
7. Thiết kế nhiều bài tập mang tính giao tiếp:
Để vận dụng tổng hợp các kiến thức về ngữ pháp - từ vựng - ngữ âm vào


trong thực hành nói , ứng dụng trong giao tiếp, giáo viên cần tích cực tìm tòi, thiết
kế các bài tập mang tính giao tiếp phù hợp cho từng bài học. Dưới đây là một số
kiểu bài tôi đã áp dụng:
a. “Describe and Arrange ”
- Hoạt động này được tiến hành theo cặp. Trong một cặp, học sinh A được
phát 1 số hình ảnh có đánh số thứ tự cố định, học sinh B được phát các hình ảnh
tương tự nhưng chỉ có 1 số hình ảnh được đánh số. Nhiệm vụ của B là phải trao đổi
với A để hoàn chỉnh việc đánh số thứ tự các tranh, A thực hiện nhiệm vụ miêu tả,
hướng dẫn B đánh số mà không được phép cho bạn xem tranh gốc. (Hình minh họa
H.2- áp dụng trong Unit 10 – Conservation- Reading. Tiếng Anh 10; Hình minh
họa H.3b- áp dụng trong Unit 13- Hobbies- Speaking. Tiếng Anh 11)
b. “Describe and Draw ”
- Tùy vào trình độ học sinh và nội dung cần chuyển tải trong bài học mà
giáo viên lựa chọn hình ảnh trong tranh cho phù hợp. Trong hoạt động này, học
sinh A được phát 1 bức tranh, học sinh này có nhiệm vụ miêu tả cho các học sinh
khác để các bạn vẽ lại. Trong quá trình vẽ, các “ họa sỹ ” có thể đặt ra các câu hỏi
để lấy thông tin rõ ràng hơn sử dụng các Wh- questions. Hoạt động này có tính
giao tiếp khá cao và giúp luyện kỹ năng nghe cho học sinh. Ví dụ:
Student A: There are two boys and a woman in the pictures. A boy is sitting
on the wheelchair.
Student B : Yes, and where’s other boy?
(Hình minh họa H.3a Phần phụ lục- áp dụng trong Unit 12- Music-
Language focus. Tiếng Anh 10)



- 16 -
c.“Find the differences”
- Hoạt động này có thể áp dụng theo cặp hoặc nhóm. Mỗi cặp/ nhóm được
phát hai bức tranh có nhiều điểm giống nhau. Trong 2- 3 phút, yêu cầu các cặp/


nhóm chỉ ra sự khác biệt và thông báo trước lớp về kết quả của mình. (Hình minh
họa H.4 Phần phụ lục)
d. “Find someone who ”
- Dạng bài tập này áp dụng rất tốt cho những bài dạy kể cả nói và ngữ pháp
(Language focus) theo chủ điểm các hoạt động hàng ngày (daily activities). Cách
tiến hành: Yêu cầu học sinh liệt kê một số việc mà mọi người thường làm (như go
jogging, go shopping, do aerobic ), sau đó cho học sinh đi quanh lớp để tìm ra
người có thói quen làm việc này. Giáo viên có thể đưa yêu cầu : Students, you have
3 minutes to find someone who does/ likes those things.
- Qua thực tế sử dụng (áp dụng trong Unit 13- Hobbies- Speaking. Tiếng
Anh 11) tôi thấy bài luyện tập này có thể áp dụng thiết kế cho nhiều trình độ học
sinh và có hiệu quả tạo hứng thú cao
e. “ Survey”
- “Khảo sát” là một biện pháp huy động tính tích cực trong giao tiếp cho học
sinh. Nếu học sinh có thể tự lập được câu hỏi thì hoạt động này thực sự rất bổ ích.
Khi thực hiện hoạt động này, tôi áp dụng thời hiện tại hoàn thành và từ chủ đề
được là ”sleep”. Giáo viên yêu cầu học sinh đưa ra càng nhiều từ vựng về chủ đề
này càng tốt. (Ví dụ: dream, nightmare , light/heavy sleeper ). Học sinh sẽ tiến
hành khảo sát bạn mình bằng cách đưa ra các câu hỏi sử dụng từ vựng vừa khai
thác. Các câu hỏi mà học sinh có thể đưa ra là:
+ Are you a light/ heavy sleeper?
+ How many hours do you normally sleep a day?
+ Have you ever talked in your sleep?
+ Have you ever had a nightmare?
+ Have you ever fallen out of the bed?
+ If yes, describe the experience(s) ?



- 17 -


(Thủ thuật này được tôi sử dụng trong Unit 3- People’s background-
Language Focus. Tiếng Anh 10)
f. “Role- playing”
- Hoạt động đóng vai là một hoạt động mang tính giao tiếp và tính thực tiễn
cao. Trong các tiết dạy nói và ngữ pháp, đều có thể áp dụng bài tập này.
- Tình huống giáo viên đưa ra có thể là: “A, imagine that you are My Tam, a
famous singer and other students, you are fans of My Tam. You meet her by a
chance and have a talk with her.” Với tình huống này, học sinh đặt ra nhiều câu hỏi
mang tính giao tiếp khác nhau .
8. Tùy theo trình độ học sinh và nội dung tiết dạy, có thể giới thiệu cho
học sinh cách dùng các từ theo từng mức độ ý nghĩa.
Nhiều từ tiếng Anh có nghĩa giống nhau nhưng mức độ ý nghĩa khác nhau.
Dưới đây là ba mức độ thường thấy và một số ví dụ minh họa. (Có thể áp dụng
trong các tiết tự chọn với nội dung nâng cao cho học sinh khá)
Positive meaning
(Nghĩa tích cực)
Negative meaning
(Nghĩa tiêu cực)
Neutral
(Nghĩa trung lập)
home accommodation house
girl, lady chick, board woman, female
single girl sprinter unmarried woman
wealthy loaded rich
juvenile childish childlike
good morning hey hello


IV. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm:


Sau một năm học áp dụng các phương pháp, thủ thuật dạy từ vựng - ngữ âm
và ứng dụng trong dạy kỹ năng giao tiếp, cùng với việc thường xuyên tham khảo ý
kiến của đồng nghiệp, bản thân tôi cũng kiểm chứng sau từng bài đã áp dụng để
tìm ra ưu điểm, hạn chế từ đó có thể thực hiện tốt hơn cho những bài sau. Tôi thấy
học sinh có sự tiến bộ nhất định. Cụ thể ở các mặt sau:




- 18 -
- Về ý thức học tập:
+ Học sinh hứng thú hơn với việc học bộ môn. Có ý thức ganh đua và tinh
thần học hỏi lẫn nhau trong các phần thi.
- Về kiến thức từ vựng:
+ Nhiều em đã cải thiện và mở rộng thêm vốn từ vựng
+ Học sinh thích thú với việc khám phá thêm nhiều từ mới phù hợp với nội
dung từng bài học đồng thời các em sử dụng từ vựng chính xác hơn.
- Về kiến thức ngữ âm:
+ Học sinh phát âm chuẩn xác hơn. Các em bắt đầu có ý thức về việc nhấn
trọng âm của từ, trọng âm của câu làm cho ngôn ngữ trong câu sinh động và đạt
hiệu quả giao tiếp hơn.
- Về kiến thức giao tiếp:
+ Biết sử dụng ngôn ngữ giao tiếp linh hoạt, phù hợp với ngữ cảnh.
+ Tích cực hơn trong việc giao tiếp bằng tiếng Anh với giáo viên cũng như
các bạn.
- Kết quả chung: Bài tập về ngữ âm, từ vựng và ngôn ngữ giao tiếp đạt
điểm số cao hơn.
Để có sự kiểm chứng cụ thể, tôi tiến hành khảo sát trong một số tiết dạy với
học sinh 2 lớp 10A1, 12A1 (54 học sinh) và thu được kết quả như sau. (Các phần
kiểm tra được quy ra thang điểm 10)


Sau khi áp dụng SKKN

Kiến thức
kiểm tra
Điểm
9-10
Điểm
7-8
Điểm
5-6
Điểm
3-4
Điểm
0-2
Số học sinh
đạt điểm từ 5
trở lên

Từ vựng
(5 câu)
7 16 22 9 0
45HS =83.0%

Ngữ âm
(5 câu)
4 18 19 10 3
41HS =76.0%

Ngôn ngữ
giao tiếp


(5 câu)
8 14 19 6 7
41HS =76.0%



- 19 -
Tôi đã so sánh kết quả này với bài khảo sát đầu năm và thấy việc áp dụng
các phương pháp dạy từ vựng – ngữ âm – giao tiếp được trình bày trong sáng kiến
đã thu được kết quả đáng mừng.
BIỂU SO SÁNH TỈ LỆ HỌC SINH ĐẠT ĐIỂM
TỪ TRUNG BÌNH TRỞ LÊN TRƯỚC VÀ SAU KHI ÁP DỤNG SKKN
H
ọc sinh đạt
điểm từ TB tr

lên trước khi áp
dụng SSKN
H
ọc sinh đạt điểm
từ TB trở lên sau
khi áp dụng
SSKN
Tăng

Kiến thức kiểm tra

Số lượng

(HS)


%
Số lượng
(HS)
%
Số lượng

(HS)
%
Từ vựng
(5 câu)
19 35.0 45 83.0 26 48.0
Ngữ âm
(5 câu)
15 27.8 41 76.0 26 48.2
Ngôn ngữ giao tiếp

(5 câu)
13 24.1 41 76.0 28 51.9


















- 20 -
PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm:
Sau một năm thực hiện và áp dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra
một số kinh nghiệm về nội dung dạy ngữ âm - từ vựng - giao tiếp. Cụ thể như sau:
- Việc dạy từ vựng - ngữ âm và sử dụng được từ đó trong kỹ năng nói và
cao hơn nữa là sử dụng được trong giao tiếp rất quan trọng vì nó giúp đạt mục tiêu
giao tiếp đạt hiệu quả cao.
- Để mục tiêu dạy tiếng Anh đạt hiệu quả, cần tạo môi trường giao tiếp để
học sinh được thực hành các kiến thức ngôn ngữ, từ vựng, ngữ pháp đã học đồng
thời hình thành cho các em thói quen, sự tự tin khi dùng Anh ngữ.
- Thường xuyên thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực bằng
cách áp dụng các phương pháp dạy mới, thiết kế các hoạt động trên lớp nhằm huy
động tối đa sự tập trung theo dõi và tham gia của học sinh trong mỗi tiết học.
Những phương pháp được trình bày trong đề tài trên có thể được biến đổi và vận
dụng sáng tạo linh hoạt để tạo hứng thú và truyền đạt kiến thức cho học sinh một
cách có hiệu quả.
- Hãy kiên nhẫn với học sinh và thường xuyên động viên, khen ngợi để tạo
động lực học tập cho các em.
- Giáo viên phải thường xuyên nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ,
trau dồi vốn từ, kiến thức ngữ pháp và ngữ âm thông qua các hoạt động cụ thể như
trao đổi, thảo luận cùng đồng nghiệp trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, dự giờ
để học tập, rút kinh nghiệm.
- Tự nâng cao năng lực giao tiếp và mở rộng vốn từ bằng cách xem phim,
xem các clip bằng tiếng Anh hoặc có phụ đề Tiếng Anh. Ngoài ra, việc nghe các


chương trình bằng tiếng Anh theo chủ đề bạn thích hoặc nghe các bài học tiếng
Anh trên đài hoặc vô tuyến cũng rất hữu ích.
II. Ý nghĩa của Sáng kiến kinh nghiệm:
- Sáng kiến đưa ra một số giải pháp giúp học sinh trường THPT Than Uyên
vận dụng kiến thức ngữ pháp, từ vựng - ngữ âm giúp các em dần nâng cao kết quả



- 21 -
học tập và cải thiện điểm thi trong phần ngôn ngữ giao tiếp nói riêng và điểm toàn
bài thi tốt nghiệp nói chung.
- Sáng kiến cũng nêu ra một số phương pháp nhằm cải tiến việc dạy từ vựng
kết hợp với ngữ âm và ứng dụng chúng để nâng cao chất lượng giao tiếp, đồng thời
tạo môi trường học ngoại ngữ thân thiện, gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Những giải pháp trong trình bày trong sáng kiến được thể hiện thông qua
việc thiết kế những bài tập nhỏ tập cho học sinh thói quen sử dụng tiếng Anh từ đó
từng bước góp phần nâng cao chất lượng sử dụng từ của học sinh nói riêng và chất
lượng học môn Tiếng Anh nói chung.
- Sáng kiến đồng thời cũng là nguồn tài liệu tham khảo khá hữu ích cho các
giáo viên tiếng Anh trong quá trình giảng dạy về một số phương pháp dạy từ vựng-
ngữ âm và cách ứng dụng chúng trong dạy học sinh kỹ năng giao tiếp.
III. Khả năng ứng dụng, triển khai:
Các phương pháp trình bày trong đề tài đã được tôi và các đồng nghiệp trong
nhóm chuyên môn áp dụng thực hiện ở hầu hết các lớp học ở trường THPT Than
Uyên từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013. Đối với bản thân, sau gần một
năm học ứng dụng các phương pháp này, tôi thấy học sinh của mình đã đạt được
những kết quả rất khả quan như: các em đã hứng thú hơn với tiết học, vốn từ vựng,
kiến thức ngữ âm- trọng âm được mở rộng, kỹ năng giao tiếp được cải thiện và
nâng cao. Tôi cho rằng, đề tài sáng kiến kinh nghiệm có thể áp dụng trong việc dạy
ngoại ngữ (Tiếng Anh) đối với học sinh cả cấp THCS và THPT trong toàn tỉnh Lai


Châu.
IV. Những kiến nghị, đề xuất:
1. Kiến nghị, đề xuất với Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Lai Châu:
- Để nâng cao năng lực giao tiếp, kiến thức về ngữ âm cho giáo viên ngoại
ngữ, việc Sở giáo dục liên hệ và tổ chức các lớp tập huấn về nội dung này với các
giảng viên trường Đại học chuyên ngữ, giảng viên người nước ngoài rất cần thiết
và thiết thực. Thông qua tập huấn, giáo viên có cơ hội để thực hành, tự đánh giá
khả năng giao tiếp của bản thân, học hỏi từ giảng viên và các đồng nghiệp nhằm
nâng cao trình độ.



- 22 -
- Tổ chức các chuyến đi thực tế hoặc học tập trao đổi kinh nghiệm ở những
nơi có nhiều khách du lịch quốc tế hoặc tập huấn nước ngoài cho giáo viên tiếng
Anh để nâng cao kỹ năng sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp quốc tế.
2. Kiến nghị, đề xuất với trường THPT Than Uyên:
- Tạo điều kiện cho giáo viên tiếng Anh được tham gia tập huấn các lớp bồi
dưỡng về chuyên môn do Sở giáo dục, Bộ giáo dục tổ chức.
- Tạo điều kiện cho giáo viên đi thi phỏng vấn lấy học bổng đi du học ở các
nước có ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh để nâng cao trình độ chuyên môn nói chung
và khả năng giao tiếp tiếng Anh nói riêng.

























- 23 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên – Nhà Xuất bản giáo dục (Trang 9)
2. Hỗ trợ ôn thi Tốt nghiệp trung học và Tuyển sinh Đại học – Nguyễn Quốc
Hùng, Ma Nhà xuất bản trẻ ( Chuyên đề Phonetics)
3. Phonetics and Phonology – Lưu Kim Nhung – Hanoi National University
of Education Faculty of English
4. Speaking 1- Nguyen Thuy Nga - Division of English Language Acquisition
(Hanoi National University of Education Faculty of English)
5. How to teach English, Jeremy Harmer, Longman.
6. English Language proficiency level benchmarks – Thai Nguyen university
- CFORD.
7. Sách giáo khoa Tiếng Anh 10, 11, 12 – Nhà xuất bản giáo dục.






















- 24 -
PHỤ LỤC
Các hình ảnh minh họa sử dụng trong đề tài

H.1 Vocabulary tree

H2. Describe and arrange

Sáng kiến kinh nghiệm skkn dạy phát âm tiếng anh cho học sinh thpt

  • doc
  • 20 trang

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“DẠY PHÁT ÂM TIẾNG ANH CHO HỌC SINH THPT”

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Phát âm chính xác là điều bắt buộc đối với bất cứ người học ngoại ngữ nào bởi nếu
người nói phát âm chính xác thì người nghe mới hiểu được. Và tương tự, nếu người nói
phát âm chính xác mà người nghe không nắm được các phát âm đó thì cũng không sao
hiểu được những gì mình nghe. Với Tiếng Anh , phát âm chính xác càng tối quan trọng vì
Tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm. Nếu phát âm sai một từ Tiếng Anh thì sẽ thành từ khác
làm người nghe hiểu sai hoặc không hiểu được. Và bộ sách giáo khoa mới Tiếng Anh
THPT đã rất chú trọng vấn đề này: bên cạnh thiết kế bài dạy về GRAMMAR,
READING, WRITING như bộ sách giáo khoa cũ , bộ sách giáo khoa mới còn có các
phần SPEAKING, LISTENING và PRONUNCIATION nhằm phát triển toàn diện các kỹ
năng cho người học. Đây chính là một trong những cái hay của bộ sách giáo khoa lần
này. Vì vậy, nội dung kiểm tra học sinh theo chương trình mới đương nhiên cũng bao
gồm cả phần phát âm( PRONUNCIATION). Trên thực tế, hầu hết học sinh rất đối phó
với nội dung này vì chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của phát âm cộng với hạn
chế khách quan về môi trường giao tiếp là hầu như không có . Về phía giáo viên, đây
cũng là nội dung dạy mới mà khi học chương trình phổ thông (cũ) chưa được tiếp cận.
Khi học đại học thì các giáo viên tương lai cũng không được học nhiều và chuyên sâu về
phát âm . Và các giáo viên dạy Anh Văn THPT hiện tại cũng không có một tài liệu chuẩn
để dạy ngữ âm nên phải tự tìm tòi nghiên cứu để phục vụ cho việc giảng dạy phát âm
của mình nên không tránh khỏi những khó khăn. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy
cho học sinh bộ môn Anh Văn nên tôi cũng rất mong muốn được chia sẻ với tất cả các
thầy cô giáo, đồng nghiệp dạy Anh văn về việc dạy phát âm cho học sinh và cũng rất
tâm huyết để giúp học sinh cải thiện khả năng phát âm của mình. Đây cũng là lý do tại
sao tôi chọn đề tài: “DẠY PHÁT ÂM TIẾNG ANH CHO HỌC SINH THPT”l àm đề tài
nghiên cứu của mình.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
“Để việc học phát âm Tiếng Anh có hiệu quả, việc thường xuyên nghe và luyện
phát âm theo giọng đọc chuẩn của người bản ngữ và giáo viên trên lớp là rất cần thiết”.
“Ngoài ra, người học cần được trang bị một số kiến thức cơ bản về cách phất âm Tiếng
Anh”. Nhưng các quy tắc phát âm Tiếng Anh thật không đơn giản. Và “Tiếng Anh cũng
không phải là một trong những ngôn ngữ mà người ta có thể dựa vào các âm tiết trong từ
để quyết định đánh trọng âm”. “Nhiều tác giả Tiếng Anh đã cho rằng trọng âm từ của
tiếng Anh khó dự đoán đến mức tốt nhất là coi việc đánh trọng âm như một đặc tính riêng
của từng từ và khi học mỗi từ thì người ta cũng phải học cách đánh dấu trọng âm của từ

ấy”. “Đây là một quan điểm xác đáng và không có gì là cường điệu”. (Trích sách Hướng
dẫn ôn tập thi Tốt Nghiệp THPT năm học 2010-2011).
Do đó, việc đúc kết và đưa ra được những quy tắc phát âm súc tích và dễ hiểu là rất hữu
ích đối với học sinh.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Đối tượng học sinh tại trường THPT Lê Quý Đôn của chúng tôi đa số là học sinh
nông thôn. Từ nhỏ khi bắt đầu học Tiếng Anh các em cũng ít được bố mẹ hay anh chị em
… kèm cặp và động viên học Anh văn bởi trong gia đình cũng hầu như không có ai giỏi
về môn này . Điều này cũng ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của các em về tầm quan
trọng không những về phát âm mà với môn Tiếng Anh nói chung. Thậm chí, phần lớn
các em bị hổng kiến thức – hổng cả kiến thức cơ bản về bộ môn Anh văn. Lớn lên khi
bước vào trường THPT các em bắt buộc phải học về phát âm mà có kiểm tra, đánh giá và
cho điểm hẳn hoi nên hoảng sợ! Các em bắt đầu đối phó với việc học phát âm.
Những cơ sở trên khiến tôi tập trung cho đề tài nghiên cứu về phát âm Tiếng Anh.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Khi bắt đầu vào lớp 10, các em đối phó với việc học phát âm . Qua thực tế các lớp
tôi giảng dạy thì một số các em khi học đọc qua loa, đọc sai … rồi khi làm bài thì theo
ngôn ngữ của học sinh với nhau là “lụi” nghĩa là các em làm ngẫu nhiên chứ không có
hiểu biết gì. Số khác các em thì làm bằng sự hiểu biết của mình và số câu đúng rất ít. Kết
quả thể hiện kiểm tra về phát âm qua giờ kiểm tra miệng tôi phát hand-outs cho học sinh
và kiểm tra viết 15 phút và một tiết vào cuối tháng 9 tại lớp 11A2 năm học 2010- 2011
như sau:
Kiểm tra miệng về phát âm
STT

Họ và tên học sinh

Điểm

1

Nguyễn Hùng Công

0

2

Hồ Thị Lành

0

3

Huỳnh Thị Diễm My

3

4

Lê Nguyên Phát

0

5

Đỗ Quang Tấn

0

6

Đặng Thị Kim Trúc

2


Trong bài kiểm tra 15’ : Đề gồm 3 câu về phát âm và tổng điểm của 3 câu phát âm là 1,5
điểm (mỗi câu 0,5 điểm). Điểm số của 6 em trên như sau:
Kiểm tra 15’ về phát âm
STT

Họ và tên học sinh

Điểm

1

Nguyễn Hùng Công

0,5

2

Hồ Thị Lành

0

3

Huỳnh Thị Diễm My

0,5

4

Lê Nguyên Phát

0

5

Đỗ Quang Tấn

0

6

Đặng Thị Kim Trúc

0


Đề kiểm tra 1 tiết gồm 6 câu về phát âm và tổng điểm của 6 câu phát âm là 1,5 điểm
(mỗi câu 0,25 điểm). Điểm số của cũng 6 em trên như sau:
Kiểm tra 45’ về phát âm
STT
1

Họ và tên học sinh
Nguyễn Hùng Công

Điểm
0,25

2

Hồ Thị Lành

0

3

Huỳnh Thị Diễm My

0,5

4

Lê Nguyên Phát

0

5

Đỗ Quang Tấn

0

6

Đặng Thị Kim Trúc

0,5


Với kết quả về kiểm tra ngữ âm rất thấp như trên, tôi luôn cho các em bài tập kiểm tra về
phát âm dạng trắc nghiêm trong các tiết học về phát âm và luôn yêu cầu học sinh đọc
từng từ và giải thích cho câu trả lời lựa chọn của mình, sau đó sửa và luyện chung bằng
cách cho cả lớp luyện đọc lại với các từ sai. Phần “Post” của các tiết học còn lại về
Reading, Speaking, Lisening, Writing tôi cũng luôn cho bài tập về phát âm để các em có
nhiều cơ hội luyên tập và thực hành.
Bên cạnh đó tôi cũng tìm tòi và dạy cho các em các quy tắc về phát âm từ những quy tắc
rất cơ bản mà rất hữu ích với các em mà hầu như các em không hề biết gì về những quy
tắc này cho đến những quy tắc phức tạp giúp các em có thể hoàn thành các bài tập trong
chương trình nhưng sách giáo khoa hay sách giáo viên không đưa ra một chuẩn mực hay
quy tắc nào . Xin mạo muội giới thiệu những quy tắc phát âm tiếng Anh sau:
A. Cấu tạo âm trong Tiếng Anh:
Nguyên âm là yếu tố cơ bản trong việc cấu tạo thành các từ Tiếng Anh. Bất kỳ một âm
tiếng Anh nào cũng phải có sự hiện diện của nguyên âm. Từ được cấu tạo hoàn chỉnh khi
có sự phối hợp giữa nguyên âm và phụ âm.
Tiếng Anh được cấu tạo bằng các hình thức sau:
(1)

Một nguyên âm đứng đầu một âm:
a. nguyên âm (vowel); eg: I

[ai]

(tôi)

a

[ə , ei] (một)

Oh! [əʊ]

(ồ)

b. nguyên âm + phụ âm (consonant); eg: at [æt, ət] (ở, tại)
it [it]

(nó- chỉ vật)

c. nguyên âm + phụ âm + phụ âm ; eg: ask [ɑ:sk] (hỏi, yêu cầu)
and [ænd, ənd, ən] (và)
d. nguyên âm + phụ âm + phụ âm + phụ âm; eg: eight [eit] (tám)
(2)
nguyên

Một nguyên âm đứng cuối một âm ( một hay nhiều phụ âm đứng trước
âm)

a. phụ âm + nguyên âm; eg: do [du:] (làm)
me [mi:] (tôi)
b. phụ âm + phụ âm + nguyên âm; eg: slow [sləu] (chậm)
stay [stei] ( ở lại)
c. phụ âm + phụ âm + phụ âm + nguyên âm; eg: spray [sprei] (phun, xịt)
d. phụ âm + phụ âm + phụ âm + phụ âm + nguyên âm; eg: schwa [∫wɑ:] (âm không
nhấn)
(3)

Một nguyên âm đứng giữa một âm:

a. phụ âm + nguyên âm + phụ âm; eg: let [let] (để cho)
sit [sit] (ngồi)
b. phụ âm + phụ âm + nguyên âm + phụ âm; eg:

swim [swim](bơi)

clip [klip] (cái kẹp)
c. phụ âm + phụ âm + phụ âm + nguyên âm + phụ âm; eg: spread [spred] (trải ra, mở
rộng)
d. phụ âm + nguyên âm + phụ âm + phụ âm; eg: call [kɔ:l] (gọi)
mill [mil] ( nhà máy)
e. phụ âm + nguyên âm + phụ âm + phụ âm + phụ âm; eg: height [hait] ( chiều cao
(4)

Hai nguyên âm đứng giữa một âm:

phụ âm + nguyên âm + nguyên âm + phụ âm; eg: head [hed] (cái đầu)
coat [kəut] (áo khoác)
Do đó, khi phát âm một từ của Tiếng Anh, ta phải nhận định âm chính xác của
nguyên âm, rồi ta ghép với phụ âm đứng sau nguyên âm, sau cùng là ghép phụ âm đứng
sau
nguyên âm; eg: face [f ei s] (gương mặt)
3 1 2
B. Phát âm các nguyên âm:
B1/ Nguyên âm “a”:
(1)

“a” phát âm [ei] khi có cấu trúc:

a. “a” + phụ âm + âm câm e*
+ e* : Trong bất kỳ chữ Tiếng Anh nào, mẫu tự “e” đúng cuối cũng là âm câm , nghĩa là
chúng ta không phát âm , trừ trường hợp “e” đi kèm với “c”, “s” hay “g” thành ce, se hay
ge thì phát âm thành âm gió (hissing sounds- ce phát âm [s], se phát âm [s] hoặc [z]) , ge
phát âm [dʒ]; eg:
age [eidʒ] (tuổi, thời đại)
race [reis] ( cuộc đua)
gate [geit] (cổng)
name [neim] (tên)
pane [pein] ( ô cửa kính)
decade ['dekeid] ( thập niên)
cake [keik] (bánh)
b.
(2)

“a” + phụ âm + phụ âm + âm câm e*; eg: chance (cơ hội)
“a” phát âm [e] trong các chữ: any ['eni] một vài
many ['meni] nhiều
area ['eəriə] khu vực
care [keə] cẩn thận
bare [beə] trơ trụi

(3) “a”phát âm [eə] khi có cấu trúc: “a” + phụ âm (+phụ âm); eg:back [bæk]
pan [pæn ]
(4)

“a” phát âm [a] khi có cấu dạng ar, ast, aff, ath, alm; eg: part [pɑ:t]
fast [fɑ:st]
staff [stɑ:f]
father ['fɑ:đə]
calm [kɑ:m]

(5)

“a” phát âm [ɔ:] khi có dạng al, alk, wa, qua; eg: call [kɔ:l]
chalk [t∫ɔ:k]
water ['wɔ:tə]
quality ['kwɔliti]

(6)

a” phát âm [i] khi có dạng –age ở cuối từ; eg: village ['vilidʒ]
cottage ['kɒtidʒ]
orphanage ['ɔ:fənidʒ]

B2/ Nguyên âm “e”:
(1)

“e” phát âm [i:] khi có cấu trúc: “e” + phụ âm + mẫu tự “e” câm;

eg: scene
intervene
(2)

“e” phát âm [e] khi có cấu trúc: “e” + phụ âm (+ phụ âm); eg: ten

pet
debt
send
(3) “e” phát âm [eə] xảy ra trước “re”; eg:
where [weə]
(ngoại lệ: here [hiə])
(3)

“e” phát âm [a] trong chữ : sergeant

there [đeə]

B3/ Nguyên âm “i”:
(1)

“i” phát âm [i] xảy ra trước 1 hoặc 2 phụ âm theo cấu trúc:

“i” + phụ âm (+ phụ âm)
Eg:

pin [pin]
ship [∫ip]

till [til]
ability [ə'biliti]
(2)

“i” phát âm [ai] xảy ra ở từ 1 vần hoặc vị trí cuối 1 từ theo cấu trúc:

“i” + phụ âm + “e” câm
Eg:

strike [straik]
file [fail]
provide [prə'vaid]

(3)

“i” phát âm [i: ] xảy ra trong các từ mượn từ Pháp ngữ:

machine [mə'∫i:n]
routine [ru:'ti:n]
police [pə'li:s]
marine [mə'ri:n]
(4)
Eg:

“i” phát âm [ə] xảy ra xảy ra trước “r” ( tạo thành “ir”)
bird [bə:d]
shirt [∫ə:t]

circus ['sə:kəs]
B4/ Nguyên âm “o”:
(1) “o” phát âm [ɒ] khi có cấu trúc:
Eg:

fossil ['f ɒsl]

“o” + phụ âm (+ phụ âm)

coffee ['kɒfi]
(2) “o” phát âm [əu] khi có cấu trúc:
Eg:

“o” + phụ âm + “e” câm

hope [həup]
home [həum]

close [kləus]
(3) “o” phát âm [ɔ:] chủ yếu xảy ra trước “re” (tạo thành “ore” hoặc “or”)
Eg:

store [stɔ:]

before [bi'fɔ:]
(4)“o” phát âm [ə:] xảy ra trước “r” khi “or” đứng sau “w”; eg:
worth [wə:θ]
(5) “o” phát âm [u] trong các chữ: woman ['wumən]
wolf [wulf]
womanly ['wumənli]
wolverine ['wulvəri:n]
(6)“o” phát âm [u:] trong các chữ: move [mu:v]
do [du:]
to [tu:, tu, tə]
who [hu:]
whose [hu:z]
whom [hu:m]
movie ['mu:vi]
(7)“o” phát âm [ʌ] khi sau “o” là m, n, v, the; eg:
son [sʌn]
love [lʌv]
mother ['mʌđə]
B5/ Nguyên âm “u”:

some [sʌm]

worm [wə:m]

(1) “u” phát âm [u] khi “u” đứng sau “l”, “r’, “j”; eg: put [put]
full [ful]
(2)

“u” phát âm [ju:] khi có cấu trúc:“u”+phụ âm + “e “ câm;

eg: tune [tju:n]
tube [tju:b]
cube [kju:b]
+ “u” cũng phát âm [ju:] ở những vần nhấn giọng; eg:

human ['hju:mən]
duty ['dju:ti]
tuesday ['tju:zdi]

C/ Sự phân vần trong Tiếng Anh (Syllable division):
Muốn tự đọc được các từ Tiếng Anh một cách dễ dàng , chúng ta cần nhớ phương
pháp phân vần sau:
(1)

Đầu tiên ta đếm xem trong từ có bao nhiêu:

-

Nguyên âm đơn: a, e, i, o, u, y

-

Nguyên âm đôi:

- Nguyên âm ba:

ai, ay

ie

au, aw

oa

ea

oi, oy

ee

ou

ei, ey

oo

eu, ew

ow

air, are

oar

ear

our

ear+ phụ âm

oor

eer

ower

là có bấy nhiêu vần.
(2) Nếu giữa 2 nguyên âm chỉ có 1 phụ âm , ta sẽ ghép phụ âm đó với nguyên âm đứng
sau nó; eg: pa/per ['peipə]
mo/ment ['moumənt]
stu/dent ['stju:dnt]
(3) Nếu giữa 2 nguyên âm chỉ có 2 phụ âm, ta phân làm 2 phần riêng biệt : 1 phụ âm
ghép với nguyên âm đứng trước nó, 1 phụ âm ghép với nguyên âm đứng sau nó;
eg: an/ger ['æηgə]
pen/cil ['pensl]
win/dow ['windou]
sup/per ['sʌpə]
(4) Nếu giữa 2 nguyên âm chỉ có 2 phụ âm, nếu “r” là phụ âm thứ nhất và phụ âm thứ 2
có thể bất kỳ phụ âm nào ta cũng chia thành 2 phần riêng biệt: phụ âm “r” ghép với
nguyên âm đứng trước nó, phụ âm còn lại ghép với nguyên âm đứng sau nó và nguyên
âm có “r” sẽ được nhấn giọng; eg: par/ty ['pɑ:ti]
bur/den ['bə:dn]
cor/ner ['kɔ:nə]
(5) Nếu giữa 2 nguyên âm chỉ có 1 phụ âm là “r” thì “r: thuộc về nguyên âm đứng sau
nó, nhưng nguyên âm đứng trước phải đọc thêm âm [ə] nếu là vần nhấn giọng;
eg: fu/ry ['fjuəri]
inqui/ry [in'kwaiəri]
(6) Khi 2 nguyên âm đọc chung 1 âm, thì không thể phân làm 2 phần riêng biệt;

eg: read [ri:d]
goal [goul]
(7) Hai nguyên âm đi kèm với nhau , được phân làm 2 phần riêng biệt khi phát âm
mà chúng ta thường gặp là: e/ate ; eg: cre/te [kri:'eit]
o/ic ; eg: hero/ic [hi'rouik]
u/i

; eg: su/icide ['su:isaid]

i/ence; eg:sci/ence ['saiəns]
i/o

; eg: vi/olence ['vaiələns]

i/ate ; eg:associ/ate [ə'sou∫iit]
(8) Cuối từ có “le”, “re”, hoặc “”er” phải có 1 phụ âm đi kèm với nó để tạo thành vần;
eg: ar/ti/cle ['ɑ:tikl]
peo/ple ['pi:pl]
mus/cle ['mʌsl]
(9) Nếu giữa 2 nguyên âm có “qu” thì “qu” sẽ thuộc về nguyên âm đứng sau nó; eg:
li/quid ['likwid]
e/quality [i:'kwɔliti]
(10) “x” là 1 mẫu tự nhưng phát thành 2 phụ âm , theo nguyên tắc phân vần nó thuộc về
nguyên âm đứng trước nó, nhưng khi đọc thì thành 2 âm [ks] hoặc [gz];
eg:

lu/xury ['lʌk∫əri]
an/xious ['æηk∫əs]
e/xotic [eg'zɔtik]

(11) Nếu “sc” không phát thành âm [s] hoặc [∫] thì được xem là 2 phụ âm , ta phải phân
làm 2 phần riêng biệt: 1 phụ âm ghép vào nguyên âm đứng trước nó, 1 phụ âm ghép vào
nguyên âm đứng sau nó; eg: mis/count ['miskaunt]
dis/covery [dis'kʌvəri]
(12) Phụ âm đứng trước “l”, “r” được đọc chung khi nó đứng đầu 1 từ;
eg: blue

[blu:]
brain [brein]
crook [kruk]

(13) Khi có tiếp vĩ ngữ -ing và trước nó có chùm âm (cluster), ta ghép chùm âm với _ing;
eg: trou/bling ['trʌbləs]
cen/tring ['sentriη]
(14) Khi “g’ đi kèm với “i” hoặc “e” sẽ phát âm thành [dʒ]; eg: gi/ant ['dʒaiənt]
ge/ne/ral ['dʒenərəl]
gen/tle ['dʒentl]
gi/gan/tic [dʒai'gæntik]
D/ Mẫu tự câm (silent letters):
Trong Tiếng Anh có một số phụ âm câm trong các trường hợp sau. Do đó, trong
cách phiên âm người ta không ghi vào phần phiên âm:
(1)

“b” là âm câm khi có dạng: -mb, -bt (khi “b” đi kèm với “m” và “t”);

eg:

comb [kəum]
dumb [dʌm]
debt [det]
doubt [daut]

(2) “c” là âm câm, xảy ra trong từ : muscle ['mʌsl]
(3)

“d” là âm câm khi đứng giữa 2 phụ âm khác; eg:

handkercheif ['hæηkət∫if]

sandwich ['sænwidʒ]
(ngoại lệ: Wednesday ['wenzdi])
(4) “e” là âm câm khi đứng cuối từ; eg:

bite [bait]

ripe [raip]
(5) “g” được phát âm [n] khi “g” đứng trước “n” có dạng gn-, -gn; nhưng phát âm là [η]
khi có dạng -ng; eg: sign [sain]
champagne [∫æm'pein]
song [sɔη]
(6)

“gh” là âm câm khi “gh” có dạng –gh, -ght (“gh” đứng cuối từ hoặc đi với “t”)

eg:

high [hai]

plough [plau]
eight [eit]
height [hait]
(Ngoại lệ: cough [kɒf]
laugh [lɑ:f]
rough [rʌf]
enough [i'nʌf]
tough [tʌf]
chough [t∫ʌf]
trough [trɔf] )
(7)

“h” là âm câm trong các từ sau đây:

honest ['ɒnist]
honour ['ɒnə]
hour ['auə]
heir [eə]
John ['dʒɒn]

ɒ

Oh [əu]
(8)

“k” là âm câm khi có dạng kn- và đứng đầu của một từ (chỉ phát âm âm [n])

Eg:

know [nəu]
knife [naif]

knee [ni:]
(9)

“l” là âm câm khi có dạng -alf; eg: calf [kɑ:f]

-alv; eg: calves [kɑ:f]
-alm; eg: calm [kɑ:m]
-alk; eg: walk [wɔ:k]
-aulk; eg: caulk [kɔ:k]
-olk; eg: folk [fouk]

-ould; eg: could [kud]
-oln; eg: Lincoln ['liηkən]
(10) “n” là âm câm khi đứng sau “m” và có dạng –mn ở cuối từ;
eg: autumn ['ɔ:təm]
hymn [him]
(11) "p" là âm câm khi đứng dầu chữ và dạng ps-, pn- và pt-; eg: psalm [sɑ:m]
pneumatic [nju:'mætik]
ptisan [ti'zæn]
(12) "s" là âm câm khi đứng sau 1 nguyên âm và đứng trước 1 phụ âm;
eg:

island ['ailənd]
aisle [ail]
+"s" cũng là âm câm trong những từ sau: debris ['debri:]

demesne [di'mein]
(13) "t" là âm câm khi có dạng -sten, -stle, -ft; eg:

listen ['lisn]
castle ['kɑ:sl]
often ['ɔfn]

(14) "r" là âm câm duy nhất trong từ : iron ['aiən], còn các trường hợp khác “r” phát
âm [r]
(15) “w” là âm câm khi đứng đầu 1 từ và đi kèm với “r” tạo thành “ wr”;
eg:

write [rait]
wrap [ræp]

+ “w” cũng là âm câm trong các từ :

sword [sɔ:d]

two [tu:]
answer ['ɑ:nsə]
+ “wh” đọc là [h] khi “wh” đứng trước “o”; eg:

who [hu:]
whose [hu:z]
whole [houl]

+ “wh” đọc là [w] khi “wh” không đứng trước “o”; eg:

when [wen]

why [wai]
where [weə]
what [wɔt]
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Với những áp dụng và những quy tắc như đã nêu trên , kết quả của các em trên vào
cuối kỳ I năm học 2010- 2011 như sau:
Kiểm tra miệng về phát âm
STT

Họ và tên học sinh

Điểm (điểm tối
đa: 10)

1

Nguyễn Hùng Công

6

2

Hồ Thị Lành

3

3

Huỳnh Thị Diễm My

8

4

Lê Nguyên Phát

4

5

Đỗ Quang Tấn

6

6

Đặng Thị Kim Trúc

7


Kiểm tra 15’ số 4 về phát âm
STT

Họ và tên học sinh

Điểm(điểm tối
đa :1,5)

1

Nguyễn Hùng Công

1

2

Hồ Thị Lành

0

3

Huỳnh Thị Diễm My

1,5

4

Lê Nguyên Phát

0,5

5

Đỗ Quang Tấn

1

6

Đặng Thị Kim Trúc

1,5


Kiểm tra 45’ số 3 về phát âm
STT

Họ và tên học sinh

Điểm(điểm tối
đa:1,5)

1

Nguyễn Hùng Công

1

2

Hồ Thị Lành

0,5

3

Huỳnh Thị Diễm My

1,5

4

Lê Nguyên Phát

0,75

5

Đỗ Quang Tấn

1,25

6

Đặng Thị Kim Trúc

1,5



VI. KẾT LUẬN:
Tóm lại, để cải tiến việc học phát âm của học sinh cần sự kết hợp cả về phương
pháp và nội dung dạy. Những cải thiện trong việc học phát âm môn Anh văn tại lớp 11 A2
năm học 2010- 2011 không chỉ thể hiện ở kết quả mà còn thể hiện trong thái độ học tập
của các em. Trong giờ học cũng như giờ luyện tập về ngữ âm tôi thấy rất ít những em tỏ
ra ngại mà phần đông các em đều tập trung và đặc biệt hơn là một số em còn tỏ thái độ
rất thích thú. Và kết quả sẽ khả quan hơn nếu được thực hiện của giáo viên xuyên suốt và

so sánh, đánh giá kết quả ngay từ khi học sinh bước vào lớp 10 cho đến hết năm 12. Và
chắc chắn theo thời gian, các nghiên cứu về quy tắc phát âm Tiếng Anh sẽ ngày càng
hoàn thiện hơn sẽ thuận lợi hơn cho giáo viên trong việc tìm tòi nghiên cứu để dạy cho
học sinh để đảm bảo vừa giới thiệu cho học sinh biết các quy tắt vừa rút ra được những
quy tắt dễ hiếu nhất.
VII. KIẾN NGHỊ:
Được tiếp cận bộ sách giáo khoa mới rất hay và trực tiếp giảng dạy các em học sinh
cả 3 khối 10, 11 và 12 trong những năm qua, tôi xin có 1 số kiến nghị sau:
Bên cạnh đa phần nội dung chương trình SGK rất hay thì cần giảm tải bớt chương
trình, đặc biệt là chương trình Tiếng Anh lớp 10 vì có quá nhiều nội dung và điều chỉnh
những nội dung chưa hay đã được góp ý trong mỗi năm học.
Sách giáo viên nên đưa ra chuẩn về phát âm theo yêu cầu tương ứng với các điểm
ngữ pháp và phát âm và những chuẩn cần cụ thể, chính xác.
Trên đây là những sáng kiến kinh nghiệm rất nhỏ bé của bản thân tôi giúp học sinh cải
thiện khả năng phát âm. Vấn đề dạy phát âm hiện là vấn đề chưa có một chuẩn mực và
các quy tắc về phát âm nào không nhiều và phức tạp nên chắc chắn còn nhiều. Rất mong
nhận được các ý kiến đóng góp và chỉ giáo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trình Quang Vinh , Ráp vần tiếng Anh- Phiên âm quốc Tế.
2. Michael Swan, Practical English Usage
3. English Phonetics
4. Nguyễn Kim Hiển, Hướng Dẫn Ôn Tập Thi Tốt Nghiệp Trung Học Phổ Thông năm
học 2010- 2011

Tải về bản full

Skkn kết hợp luyện ngữ âm trong bước dạy từ mới nhằm phát huy khả năng phát âm và tự học tiếng anh cho học sinh thcs (tiếng anh 7)

  • pdf
  • 21 trang

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỨC PHỔ
TRƯỜNG THCS PHỔ VĂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KẾT HỢP LUYỆN NGỮ ÂM TRONG BƯỚC DẠY TỪ MỚI
NHẰM PHÁT HUY KHẢ NĂNG PHÁT ÂM
VÀ TỰ HỌC TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

Lĩnh vực: Môn Tiếng Anh

Giáo viên: Nguyễn Thị Hiền Minh

Năm học 2014-2015

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỨC PHỔ
TRƯỜNG THCS PHỔ VĂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KẾT HỢP LUYỆN NGỮ ÂM TRONG BƯỚC DẠY TỪ MỚI
NHẰM PHÁT HUY KHẢ NĂNG PHÁT ÂM
VÀ TỰ HỌC TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ

Lĩnh vực: Môn Tiếng Anh

Giáo viên: Nguyễn Thị Hiền Minh

Năm học 2014-2015

Mục lục

trang

PHẦN 1 .............................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .............................................................................. 1
1.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .................................................................... 1
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU .......................................................................... 1
PHẦN 2 .............................................................................................................. 2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN .................................................................................. 2
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ....................................................................................... 2
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN .................................................................................. 2
2.2.1.Những thành tựu.................................................................................. 2
2.2.2. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc dạy và học Tiếng
Anh ở trường THCS ...................................................................................... 3
2.2.3. Thực trạng đổi mới cách tổ chức hoạt động dạy học theo phương
pháp đổi mới môn Tiếng Anh ở trường THCS Phổ Văn .............................. 3
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ....................................................................... 6
2.3.1.1/ Các nguyên âm đơn gồm có: /i:/, /i/, /e/, / æ /, /a:/, /u/, /u:/, /Λ/, /
ə /, /з:/, /D/, /D:/. ........................................................................................ 6
2.3.1.2/ Các nguyên âm đôi gồm có: /ei/, /ai/, /əu/, /au/, /iə/, /eə/, /Di/. .. 6
2.3.2/ Xác định các phụ âm có trong Tiếng Anh ở khối lớp giảng dạy: ....... 6
2.3.2.1/ Phụ âm vô thanh gồm có: /ʃ/, /s/, /tʃ/, /f/, /t/, /k/, /h/, /p/, /θ/. ...... 6
2.3.2.2/ Phụ âm hữu thanh gồm có: /b/, /d/, /g/ ,/dʒ/, /ð/, /v/, /Ζ/, /ʒ/, /m/,
/n/, /ŋ/, /l/, /w/, /r/, /j/. ................................................................................ 6
2.3.3/ Phân thành từng cặp âm tương ứng: ................................................... 6
2.3.3.1/ Bảng biểu thị cách phát âm nguyên âm (Cardinal vowel scale). 7
Table of Cardinal Vowels ......................................................................... 7
2.3.2.2/ Bảng biểu thị cách phát âm phụ âm trong Tiếng Anh
(Classification of English consonants). .................................................... 8
2.3.4/ Xác định từng cặp âm với từng đơn vị bài học:............................... 10
2.3.5/ Thực hiện giảng dạy trên lớp. .......................................................... 12
2.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................................... 14
PHẦN 3 ............................................................................................................ 16
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 16
3.1. KẾT LUẬN ............................................................................................... 16
3.2. ĐỀ NGHỊ................................................................................................... 16
Tài liệu tham khảo ............................................................................................ 18

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tiếng Anh là một ngôn ngữ quốc tế thông dụng nên nó đã sớm trở
thành một trong những ngôn ngữ chiếm vị trí quan trọng trong chương trình
giảng dạy của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong
những năm đầu, việc giảng dạy Tiếng Anh trong các trường trung học còn
thiên về kiến thức ngữ pháp và kĩ năng viết, năng lực giao tiếp bằng Tiếng
Anh chưa được đề cao. Nhưng từ khi nước ta mở rộng quan hệ giao lưu và
hợp tác kinh tế với các nước trên khắp thế giới, nhu cầu sử dụng Tiếng Anh
trong giao tiếp càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nhu cầu xã hội kéo
theo yêu cầu giáo dục cũng thay đổi. Bộ GD&ĐT đã tiến hành thay đổi sách
giáo khoa và phương pháp dạy học một cách đồng bộ, riêng bộ môn Tiếng
Anh, kĩ năng giao tiếp và năng lực giao tiếp của người học được đặt lên hàng
đầu, kĩ năng nghe - nói được chú trọng hơn rất nhiều. Để phát huy được hai kĩ
năng này thì cần phải có biện pháp giúp cho người học biết cách phát âm và
đọc chuẩn Tiếng Anh ngay từ giai đoạn học ban đầu. Vì vậy, tôi đã suy nghĩ
và quyết định chọn đề tài: “Kết hợp luyện ngữ âm trong bước dạy từ mới
nhằm phát huy khả năng phát âm và tự học Tiếng Anh cho học sinh trung học
cơ sở.”
1.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh trường THCS Phổ Văn
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Kết hợp luyện ngữ âm trong bước dạy từ mới nhằm phát huy khả
năng phát âm và tự học Tiếng Anh cho học sinh lớp 7

<1>

PHẦN 2
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tiếng Anh là môn học tương đối khó với học sinh ở khu vực nông thôn
bởi điều kiện học tập của các em không được tốt, sách tham khảo và các thiết
bị hổ trợ học tập và rèn luyện thiếu thốn, thêm vào đó môi trường giao tiếp
bằng Tiếng Anh cũng hết sức hạn chế nên các em không có điều kiện để trao
dồi kĩ năng nghe - nói một cách thường xuyên. Phần lớn các em chỉ được
luyện tập hai kĩ năng này trên lớp trong các tiết học Tiếng Anh. Theo định
hướng đổi mới phương dạy học môn Tiếng Anh THCS- Nhà xuất bản Giáo
dục, năm 2008 thì người học phải nắm bắt được các kiến thức ngôn ngữ và sử
dụng chúng trong hoạt động giao tiếp bằng chính năng lực giao tiếp của học
sinh có nghĩa là giao tiếp là phương hướng chủ đạo, năng lực giao tiếp là đơn
vị cơ bản, coi giao tiếp vừa là mục đích vừa là phương tiện dạy học. Học sinh
cần được trang bị cách thức học Tiếng Anh và cách thức tự học, tự rèn luyện
Tiếng Anh. Thực hiện theo Công văn 8773/BGDĐT-GDTrH ngày 30-122010 và Hướng dẫn biên soạn đề kiểm tra theo chuẩn kiến thức kĩ năng- Nhà
xuất bản Giáo dục năm 2011 về đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, các
bài kiểm tra định kì cần phải có kiểm tra ngữ âm. Vì vậy, việc tìm ra một biện
pháp giúp các em biết cách phát âm và đọc chuẩn Tiếng Anh để nâng cao hiệu
quả học tập, tạo điều kiện cho các em có thể tự học và rèn luyện, đồng thời
giúp cho các em có hiểu biết và định hướng căn bản xuyên suốt quá trình học
Tiếng Anh của các em sau này.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1.Những thành tựu
Trong những năm qua mà đặc biệt là thời gian gần đây, Sở Giáo dục và
Đào tạo Quảng Ngãi, Phòng Giáo dục Đào tạo Đức Phổ rất quan tâm, chú
trọng vào việc dạy - học Tiếng Anh. Ngành giáo dục huyện đã tổ chức các hội
<2>

thi như hội thi giáo viên dạy giỏi, hội thi Olympic cho học sinh,.... Bên cạnh
đó, ngành giáo dục tạo điều kiện cho giáo viên toàn huyện dự Câu lạc bộ nói
Tiếng Anh điển hình để giáo viên có cơ hội gặp gỡ, học hỏi và chia sẽ những
kinh nghiệm của mình trong việc tổ chức câu lạc bộ cũng như kinh nghiệm
rèn kĩ năng nói cho học sinh. Qua các hội thi, các đợt học chuyên môn, cũng
như các đợt tổ chức Câu lạc bộ nói Tiếng Anh cả giáo viên và học sinh đều
có cơ hội giao lưu học hỏi kiến thức, kinh nghiệm lẫn nhau. Để từ đó, mỗi
giáo viên tự cố gắng tìm tòi, học hỏi sáng tạo và thiết kế cho mình những
phương pháp giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn trong khi nói Tiếng Anh.
2.2.2. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc dạy và học
Tiếng Anh ở trường THCS
Tiếng Anh đã trở thành môn học trọng tâm như các môn văn hóa khác
nhưng vẫn là môn học khó và không phải bất cứ học sinh nào cũng có năng
khiếu học ngoại ngữ để học nó một cách dễ dàng.
Môi trường học tập chưa đảm bảo, các em chưa có phòng học chuyên
biệt dành cho bộ môn, chưa có môi trường giao tiếp .
Các em ngại nói bởi sợ sai và từ đó không còn tích cực tham gia các
hoạt động luyện nói, thụ động trong giao tiếp bằng Tiếng Anh, dẫn đến mất
hứng thú học tập bộ môn này.
2.2.3. Thực trạng đổi mới cách tổ chức hoạt động dạy học theo
phương pháp đổi mới môn Tiếng Anh ở trường THCS Phổ Văn
Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học thì phương pháp dạy học
ngoại ngữ chọn giao tiếp là phương hướng chủ đạo, năng lực giao tiếp là đơn
vị dạy học căn bản, coi giao tiếp vừa là mục đích vừa là phương tiện dạy học.
Phương pháp dạy học này đòi hỏi học sinh phải phát huy tốt vai trò chủ thể,
chủ động và sáng tạo trong học tập. Học sinh phải được trang bị cách thức
học Tiếng Anh và ý thức tự học tập, tự rèn luyện. Người học là chủ thể, cần
phải tự học để có thể nắm vững kiến thức cũng như các kĩ năng ngôn ngữ.
Trong việc áp dụng phương pháp giao tiếp vào quá trình dạy học Tiếng Anh,
giáo viên cần coi trọng các kĩ năng nghe- nói. Để phát huy được kĩ năng này,
<3>

đòi hỏi giáo viên phải dạy phối hợp tốt với ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, chức
năng ngôn ngữ và với các kĩ năng khác. Thế nhưng thực tế cho thấy trong quá
trình giảng dạy nói chung và dạy từ mới nói riêng, việc giảng dạy ngữ âm
chưa thật sự được chú trọng. Trong bước dạy từ mới giáo viên chỉ sử dụng
các kĩ thuật gợi mở để giới thiệu từ mới, hướng dẫn cách đọc các từ đó, cung
cấp nghĩa rồi chỉ kiểm tra trọng âm của một số từ có từ hai âm tiết trở lên,
hoàn toàn không có sự hướng dẫn cách đọc các nguyên âm hay phụ âm để dần
dần hình thành cho học sinh khả năng ghi nhớ cách đọc từ theo phiên âm
quốc tế, phán đoán cách đọc từ, hay tự tra cứu cách đọc từ trong từ điển Tiếng
Anh. Việc các em chỉ biết cách đọc từng từ theo cách nghe và lặp lại theo
giáo viên, nhất là khi vốn từ ngày một nhiều lên và các từ ít được luyện tập
thường xuyên, đã gây ra nhiều khó khăn cho các em. Một khi đã quên, các em
hoàn toàn không có khả năng tự tìm cách đọc được, dần dần, các em ngại đọc
bởi sợ sai và từ đó không còn tích cực tham gia các hoạt động luyện nói, thụ
động trong giao tiếp bằng Tiếng Anh, dẫn đến mất hứng thú học tập bộ môn
này. Để giúp các em cải thiện vấn đề này tôi đã nghiên cứu và đi đến quyết
định lồng ghép việc dạy ngữ âm cho các em trong bước giới thiệu từ mới để
phần nào giúp các em có những hiểu biết căn bản về cách phát âm, khả năng
tra cứu và phán đoán cách đọc các từ Tiếng Anh. Tuy nhiên để đảm bảo thời
gian khai thác kiến thức, nội dung bài học đã được quy định, tôi đã dày công
nghiên cứu cách thức giảng dạy để vừa tiết kiệm tối đa thời gian vừa đem lại
hiệu quả cao cho cách dạy.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy môn Tiếng Anh ở
trường THCS, được phân công giảng dạy ở nhiều khối lớp trong những năm
học qua, bản thân tôi nhận thấy rằng, hầu hết học sinh bước đầu đều ham
thích bộ môn này vì nhiều lí do như sau: Đây là bộ môn mới lạ, trong quá
trình học tập các em luôn được tham gia nhiều hoạt động học tập lí thú dưới
hình thức trò chơi ngôn ngữ. Điều này là nhờ lúc đầu kiến thức bài học còn ít
các em dễ ghi nhớ, giáo viên có điều kiện tổ chức nhiều hoạt động dễ tham
gia. Nhưng dần về sau các em càng mất đi hứng thú học tập, thiếu tự tin và
<4>

không chủ động tham gia các hoạt động học tập trên lớp. Là một giáo viên
trực tiếp giảng dạy, nên tôi dễ dàng tìm ra nguyên nhân của vấn đề này chính
là do vốn từ ngày càng lớn, trong khi các em chỉ biết đọc các từ đã học ghi
nhớ chúng một cách máy móc bằng việc bắt chước cách đọc mà thầy cô giáo
đã hướng dẫn, trong khi đó các em không có điều kiện luyện tập thường
xuyên nên các em nhanh chóng quên đi, rồi cảm thấy khó đọc. Khi đã đọc sai
nhiều lần các em phát sinh tâm lí e ngại thiếu tự tin, dần dần các em không
hứng thú học tập, không còn chủ động tham gia vào các hoạt động học tập
trên lớp, đặc biệt là các hoạt động học tập có liên quan đến các kĩ năng nghe
và nói Tiếng Anh. Từ thực tế đó, tôi nhận thấy rằng việc giúp cho học sinh
ngay từ những thời gian đầu học Tiếng Anh, biết được cách phát âm căn bản
và đọc Tiếng Anh là hết sức cần thiết, nó không chỉ quyết định đến sự thành
công trên con đường học Tiếng Anh của các em mà còn góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy ở bộ môn này.
Trong năm học 2012- 2013, tôi đã mạnh dạn triển khai sáng kiến của
mình trong nhóm bộ môn và thực hiện giảng dạy đối với học sinh khối lớp 6
mà tôi đang phụ trách giảng dạy và được đồng nghiệp trong nhóm bộ môn
đánh giá cao. Những biện pháp thực hiện phù hợp với nội dung, đặc trưng và
yêu cầu thực tế của bộ môn Tiếng Anh. Hơn thế nữa, qua lớp tập huấn ra đề
kiểm tra theo chuẩn kiến thức kĩ năng, tôi nhận thấy rằng trong các đề kiểm
tra định kì luôn có phần kiểm tra ngữ âm. Tuy nhiên đối với học sinh THCS,
thì đây là dạng bài tập tương đối khó và xa lạ. Thế nên việc lồng ghép luyện
ngữ âm cho học sinh trong bước dạy từ mới là một việc rất cần thiết. Với
những lập luận trên, trong năm học 2013- 2014 tôi tiếp tục vận dụng sáng
kiến này vào dạy học cho học sinh khối lớp 7 và đăng kí viết đề tài sáng kiến
kinh nghiệm. Kết quả sáng kiến kinh nghiệm của tôi đã được Hội đồng thẩm
định đánh giá cao, vì vậy trong năm học này (2014- 2015), tôi tiếp tục nghiên
cứu đưa vào giảng dạy thêm phần phụ âm để giúp học sinh học tốt hơn đồng
thời đó cải thiện được kĩ năng làm các bài kiểm tra của học sinh trong phần
ngữ âm đạt hiệu quả cao hơn.
<5>

2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Cách thực hiện gồm các bước sau đây:
2.3.1/ Xác định rõ các nguyên âm có trong Tiếng Anh ở khối lớp
giảng dạy:
Vì nguyên âm là yếu tố quyết định các âm tiết trong một từ Tiếng Anh, vì
thế chúng ta phải xác định rõ các nguyên âm, xem xét đặc tính riêng biệt để
có kế hoạch đưa vào giảng dạy sao cho hợp lí và hiệu quả. Có hai loại nguyên
âm là nguyên âm đơn và nguyên âm đôi.
2.3.1.1/ Các nguyên âm đơn gồm có: /i:/, /i/, /e/, / æ /, /a:/, /u/, /u:/, /Λ/,
/ ə /, /з:/, /D/, /D:/.
2.3.1.2/ Các nguyên âm đôi gồm có: /ei/, /ai/, /əu/, /au/, /iə/, /eə/, /Di/.
2.3.2/ Xác định các phụ âm có trong Tiếng Anh ở khối lớp giảng
dạy:
Trong Tiếng Anh thì phụ âm được phân làm hai loại dựa vào đặc điểm
phát âm của nó là: âm vô thanh và âm hữu thanh.
2.3.2.1/ Phụ âm vô thanh gồm có: /ʃ/, /s/, /tʃ/, /f/, /t/, /k/, /h/, /p/, /θ/.
2.3.2.2/ Phụ âm hữu thanh gồm có: /b/, /d/, /g/ ,/dʒ/, /ð/, /v/, /Ζ/, /ʒ/,
/m/, /n/, /ŋ/, /l/, /w/, /r/, /j/.
2.3.3/ Phân thành từng cặp âm tương ứng:
Dựa vào đặc điểm của các cách phát âm các nguyên âm và phụ âm theo
các chuyên gia ngôn ngữ như vị trí của lưỡi, độ cao, môi, răng, lợi hay ngạc
cứng mà giáo viên có thể phân ra từng cặp âm đưa vào giảng dạy để giúp học
sinh dễ ghi nhớ và luyện tập hơn. Bên cạnh đó giáo viên cũng cần dựa vào
bảng biểu tượng phát âm “Pronunciation Symbols” ở phần Glassary trong
sách Tiếng Anh 7 mà ta có thể tổng hợp và đưa vào giảng dạy sao cho phù
hợp.
Dưới đây là hình thang biểu thị cách phát âm của các nguyên âm và phụ
âm căn bản trong Tiếng Anh.
<6>

2.3.3.1/ Bảng biểu thị cách phát âm nguyên âm (Cardinal vowel scale).

Table of Cardinal Vowels
Cardinal

IPA

Description

1

[i]

close front unrounded vowel

2

[e]

close-mid front unrounded vowel

3

[ɛ]

open-mid front unrounded vowel

4

[a]

open front unrounded vowel

5

[ɑ]

open back unrounded vowel

6

[ɔ]

open-mid back rounded vowel

7

[o]

close-mid back rounded vowel

8

[u]

close back rounded vowel

9

[y]

close front rounded vowel

<7>

10

[ø]

close-mid front rounded vowel

11

[œ]

open-mid front rounded vowel

12

[ɶ]

open front rounded vowel

13

[ɒ]

open back rounded vowel

14

[ʌ]

open-mid back unrounded vowel

15

[ɤ]

close-mid back unrounded vowel

16

[ɯ]

close back unrounded vowel

17

[ɨ]

close central unrounded vowel

18

[ʉ]

close central rounded vowel

2.3.2.2/ Bảng biểu thị cách phát âm phụ âm trong Tiếng Anh (Classification

of English consonants).
Place
Bilabia
Manner

Dental

l

Labio-

Alveolar

dental

Palato-

Palatal

Velar

alveolar

Stops
- voice
+ voice

p

t

k

b

d

g

Affricate
- voice



+ voice

Fricative
- voice
+ voice

Nasal

m

θ

f

s

ʃ

ð

v

z

ʒ

n

+ voice

<8>

ŋ

Glottal

Lateral

l

+ voice
Appro-

w

r

j

(w)

ximant

Như tôi đã trình bày, dựa vào hình trên ta có thể phân thành từng cặp âm
sau đây:

Tongue position

Pairs of vowels

/i/

-

Notes

/i:/

High vowels
/u/ - /u:/
/ə/ - /з:/
Mid vowels
/e/

-

/D:/

/æ/ - /Λ/
Low vowels

/ D/

- /a:/

/ei/ - /ai/
Rising diphthongs
/ əu / - /au/
Centring diphthongs

/iə/ - /Di/

Đối với phụ âm, do một số phụ âm không khó đọc hoặc đọc giống như
tiếng Việt như: “m, n, l, d, v, t, …” nên tôi chỉ nhắc lướt qua trong quá trình
giảng dạy, chỉ chú trọng dạy những phụ âm có cách phát âm khó hoặc có cách
phiên âm khác so với từ gốc mà thôi. Các cặp từ mà tôi cho là cần thiết giảng

<9>

dạy hoặc có tính tương phản giúp học sinh dễ ghi nhớ là: /p/-/b/; /k/-/j/; /g//ŋ/; /w/-/r/; /z/-/ʒ/; /tʃ/-/dʒ/; /θ/-/ð/ và /s/-/ʃ/.
2.3.4/ Xác định từng cặp âm với từng đơn vị bài học:
Đây là bước thực hiện khá tốn nhiều thời gian, nhưng cần thiết. Để đem
lại hiệu quả cao, giáo viên không phải bị lúng túng trong khi giảng dạy thì
ngay từ đầu năm học, giáo viên cần nghiên cứu thật kĩ số từ vựng có trong
từng bài (Unit), trong từng tiết học để có sự sắp xếp sao cho phù hợp và thuận
tiện khi giới thiệu các cặp âm vào giảng dạy. Mỗi giáo viên giảng dạy có thể
có cách sắp xếp và lựa chọn riêng, nhưng phải đảm bảo một nguyên tắc, là
các âm đưa vào giảng dạy phải có ngay trong những từ mới mà chúng ta vừa
mới giới thiệu trong bước dạy từ mới để tiết kiệm thời gian, đồng thời các âm
giới thiệu phải là các âm liên quan đến một số từ đã học trước đó để giúp học
sinh dễ dàng tìm thêm một số từ minh họa. Với những yêu cầu đó, chúng ta
có thể xác định và phân chia các cặp âm theo các bài học và tiết học như sau:

TT

Các cặp âm

Bài

Tiết

Từ trong bài được

giảng dạy

(Unit)

(PPCT)

giới thiệu

Ghi chú

distance, miss,
1

/i/ - /i:/

1

5

meter - means

pretty, different,
meet, ...
pen, book, pocket,

2

/p/ - /b/

1

6

stamp - bus

borrow, …

black, yellow, yes,
3

/k/ - /j/

2

10

except - leap

chemistry, …

year
calendar, moment,
4

/ə/ - /з:/

2

11

address <10>

nervous, bird, …

birthday
engineer, toystore,
5

/iə/ - /Di/

2

12

appear - join

noise, hear, …

late, time,
6

/ei/ - /ai/

3

13

amazing - bright classmate, fine, …

sit, intersection,
7

/s/ - /ʃ/

3

14

expensive -

see, nation, …

delicious

8

/æ/ - /Λ/

4

23

snack unpopular

breakfast, brush,
bus, bag, …
water, orange,

9

/w/ - /r/

4

24

welcome - rack

wash, run, …

watch, after, hot,
10

/D/ - /a:/

5

27

electronics -

tomato, …

guitar
neighborhood,
11

/e/ - /D:/

5

33

energetic portable

work, pen,
door,…
post office, house,

12

/əu/ - /au/

6

35

show - scout

know, down, …
green, strong,

13

/g/ - /ŋ/

6

36

get - wedding

<11>

long, grow, …

either, math,
14

/θ/ - /ð/

8

48

thanks -

father, teeth …

altogether
book, improve,
15

/u/ - /u:/

9

59

cushion - tool

souvernir, cook,

couch, engineer,

16

/tʃ/ - /dʒ/

12

73

spinach -

watch, orange, …

vegetable
always, usually, ...
17

/z/ - /ʒ/

12

75

scales - measure

* Ghi chú: Từ minh họa là những từ vựng đã được học trước đó hoặc có
trong chương trình lớp 6 để minh họa và luyện tập thêm. Không nên giới
thiệu những từ chưa học, để không làm học sinh bối rối.
2.3.5/ Thực hiện giảng dạy trên lớp
Việc thực hiện giảng dạy ngữ âm trên lớp phải đảm bảo tính khoa học,
tiết kiệm được thời gian và giúp học sinh dễ dàng tiếp thu hơn. Theo kinh
nghiệm của tôi thì chúng ta nên lồng ghép dạy ngữ âm sau khi học sinh đọc
được từ mới và ghi chép vào vở. Giáo viên có thể ghi cặp âm cần đưa vào
giảng trên bảng theo kí hiệu phiên âm quốc tế, hướng dẫn cho học sinh cách
phát âm như vị trí của lưỡi, răng, môi, … . Yêu cầu học sinh tìm trong các từ
mới vừa học, từ nào có âm tiết được phát âm như thế. Sau khi học sinh tìm
được, giáo viên ghi hai từ đó theo hai cột dọc với hai âm vừa giới thiệu, dùng
phấn màu gạch chân những nguyên âm của từ được phát âm như hai phiên âm
quốc tế trên. Nếu có thể, giáo viên nên giới thiệu thêm một số nguyên âm, hay
nguyên âm kết hợp với phụ âm tạo ra hai phiên âm đó.
<12>

Ví dụ:

/ei/

/ai/

amazing

bright

(late, classmate, ...)

(fine, time, ...)

Giáo viên cho học sinh đọc 2 đến 3 lần âm tiết đó, rồi đọc từ có âm tiết
đó cũng từ 2 đến 3 lần. Sau đó, giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân hoặc
theo cặp tìm thêm một số từ đã học có cách phát âm như hai âm tiết được giới
thiệu. Nếu học sinh không tự tìm được, giáo viên có thể gợi ý hoặc tự giới
thiệu thêm vài từ, rồi cho học sinh luyện tập để khỏi tốn kém nhiều thời gian.
Tùy theo khả năng học tập của học sinh, giáo viên có thể đưa vào
luyện tập ở mức độ khó hơn để khuyến khích các đối tượng học sinh khá giỏi
qua bài tập luyện âm theo câu. Thông qua dạng bài luyện âm này, giáo viên
có thể luyện thêm ngữ điệu cho học sinh.
Ví dụ:
Để luyện âm:
- /i/ => Will you please sit down and listen to me?
- /i:/ => Christine would like Jean to repeat that question.
- /ei/ => They say the young man was very brave.
- /ai/ => Ivan will drive tonight.
- /e/ => Everyone said that November seemed endless.
- /æ/ => Dan's family loves to go camping.
- /з:/ => The girl hurt herself yesterday.
- /u/ => Mon put the cookbook away.
- /u:/ => June has been unusually cool this year.
- /D/ => The small dog loved to walk in the leaves.
- /a:/ => It is hard to march in the heat.
<13>

- /əu/ => It is going to drop below zero tonight.
- /au/ => Mr. Brown went downtown for lunch.
- ............................................................
2.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua 3 năm thực hiện và điều chỉnh bổ sung, tôi nhận thấy rằng việc
lồng ghép luyện ngữ âm cho học sinh lớp 6, 7 trong bước dạy từ vựng đã giúp
cho học sinh dần dần thuộc được các kí hiệu phiên âm quốc tế. Các em cũng
có được những hiểu biết căn bản về cách phát âm các âm tiết trong Tiếng
Anh. Nhiều học sinh đã có thể tự tra từ điển để đọc các từ mới mà các em gặp
trong khi học. Việc biết cách đọc từ đã giúp các em tự tin hơn, ham thích đọc
Tiếng Anh hơn và cũng nhờ vậy mà khả năng ghi nhớ từ của các em cũng
được cải thiện một cách đáng kể. Với sự cố gắng không ngừng của bản thân
trong việc tìm tòi nghiên cứu các biện pháp giảng dạy, trong nhiều năm học
tôi luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, chất lượng giảng dạy cũng luôn
được cải thiện, nhiều năm liền trường tôi đều có học sinh tham gia bộ môn
Tiếng Anh trong đội tuyển học sinh giỏi của huyện nhà, tham gia và đạt được
nhiều giải trong các hội thi thuyết trình Tiếng Anh cấp trường được tổ chức
hằng năm.
- Kết quả giảng dạy cụ thể:
+ Năm học 2012- 2013
Lớp

Tổng số HS

Giỏi

Khá

≥ T.Bình

6C

32

6

10

16

6D

33

5

11

17

Ghi chú

+ Năm học 2013- 2014
Lớp

Tổng số HS

Giỏi

Khá

≥ T.Bình

7C

32

8

11

13

7D

33

8

12

13

<14>

Ghi chú

Ngoài kết quả trung bình môn luôn được cải thiện, kết quả làm bài ở
phần kiểm tra ngữ âm tăng lên rõ rệt, rất nhiều học sinh đạt điểm 100% ở
phần kiểm tra này. Điều quan trọng hơn là hầu hết các em học sinh không còn
e ngại với các dạng bài tập kiểm tra ngữ âm nữa. Đồng thời, kĩ năng nói và
năng lực giao tiếp bằng Tiếng Anh của các em cũng được cải thiện đáng kể.

<15>

PHẦN 3

KẾT LUẬN
3.1. KẾT LUẬN
Thực hiện tinh thần đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ theo
hướng giao tiếp, coi trọng kĩ năng nghe và nói Tiếng Anh, thì việc giúp cho
sinh biết cách phát âm để đọc tốt được Tiếng Anh là hết sức cần thiết, phát
huy được khả năng nói và tạo sự tự tin, chủ động tham gia tích cực các hoạt
động học tập trên lớp. Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này tôi nhận
thấy rằng việc lồng ghép luyện ngữ âm trong bước dạy từ mới là hết sức thiết
thực, giúp cho học sinh cải thiện được khả năng phát âm và đọc đúng Tiếng
Anh, tạo thêm hứng thú trong học tập, làm cho tiết học thêm màu sắc, vốn từ
của các em cũng tăng lên nhờ vào việc tự học và tự tra cứu thêm từ ở nhà.
Bản thân giáo viên đứng lớp cũng cảm thấy tiết học thêm đa dạng và phong
phú hơn, đem lại chất lượng giảng dạy cao hơn cho môn học này. Điều này
khẳng định đề tài mà tôi nghiên cứu là phù hợp với thực tế nhà trường, có tính
khả thi và mang lại hiệu quả thiết thực.
3.2. ĐỀ NGHỊ
+ Với giáo viên giảng dạy:
- Khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, giáo viên cần có sự chuẩn bị chu
đáo trước khi lên lớp như tìm một số từ đã học có âm tiết giống với các âm
được dạy để minh họa cho học sinh. Nên sử dụng bảng phụ viết một số từ
minh họa để tiết kiệm thời gian.
- Chỉ dạy một từ hoặc một cặp từ trong một tiết học để đảm bảo tính vừa
sức và đảm bảo thời gian khai thác nội dung bài học.

<16>

- Giáo viên có thể thay đổi các cặp âm khi giảng dạy, nhưng phải đảm bảo
các cặp âm đó nằm trong các từ mới có trong bài đang dạy, để học sinh dễ
tiếp thu hơn và tiết kiệm thời gian hơn.
+ Với tổ chuyên môn: Triển khai và chỉ đạo cho nhóm bộ môn vận
dụng các SKKN đã được công nhận vào giảng dạy, nhằm không ngừng nâng
cao chất lượng dạy và học, đồng thời tạo điều kiện để các đồng nghiệp có cơ
sở thực tiễn giúp đỡ nhau tiếp tục hoàn thiện SKKN.
+ Với Ban giám hiệu nhà trường: Tạo điều kiện phân công chuyên
môn cho giáo viên được giảng dạy liên tục theo khối lớp ít nhất 3 năm, để
giáo viên có đủ thời gian và điều kiện vận dụng, kiểm chứng tính hiệu quả và
viết SKKN
+ Với Phòng giáo dục và đào tạo: Cần tổ chức nhiều hơn nữa các tiết
thao giảng chuyên đề cấp huyện, cũng như cụm để giáo viên có cơ hội học hỏi
và áp dụng những cái mới, những điểm hay vào thực tế giảng dạy của trường
mình.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm thiết thực của tôi trong việc
nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tiếng Anh ở trường THCS và đã được
thực nghiệm ở trường THCS Phổ Văn. Trong quá trình thực hiện, thiếu sót là
điều không thể tránh khỏi. Bản thân mong nhận được sự góp ý của đồng
nghiệp trong nhà trường, trong huyện để nội dung đề tài được hoàn thiện và
sử dụng rộng rãi hơn.

Phổ Văn, ngày 10 tháng 11 năm 2014
Người viết

Nguyễn Thị Hiền Minh

<17>

Tải về bản full

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khi dạy phát âm (pronunciation) trong Tiếng Anh trung học cơ sở

Nội dung chính của đề tài sáng kiến kinh nghiệm này là đưa ra một số phương pháp dạy phát âm (pronunciation) trong Tiếng Anh trung học cơ sở. Mời các bạn tham khảo!

Thể loại Tài liệu miễn phí Sáng kiến kinh nghiệm

Số trang 13

Ngày tạo 11/27/2018 5:57:15 PM +00:00

Loại tệp DOC

Kích thước 0.57 M

Tên tệp

Tải Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khi dạy ... (.pdf)