Những cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với ngành giáo dục

Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với giáo dục

Chuyên đề: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam

Năm: Năm 2018

Số: Số 7 ;

Nội dung:

1. Mở đầu

Tính tới thời điểm hiện tại, thế giới đã và đang trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN). Cuộc CMCN lần thứ nhất diễn ra từ năm 1784 (đánh dấu bởi sự ra đời của động cơ hơi nước, chuyển từ lao động thủ công sang sản xuất cơ khí). Cuộc CMCN lần thứ hai diễn ra từ năm 1870 đến trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (với sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, đánh dấu việc chuyển nền sản xuất sang sản xuất trên cơ sở điện - cơ khí và tự động hóa cục bộ, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học thuần túy và biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt; đây là cuộc CMCN làm thay đổi mạnh mẽ phương thức sản xuất và cũng làm thay đổi kết quả sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đơn lẻ sang sản xuất hàng hóa hàng loạt bằng máy móc chạy với năng lượng điện). Cuộc CMCN lần thứ ba xuất hiện vào năm 1969 (với sự ra đời và phủ rộng của công nghệ thông tin, điện tử và nhằm tự động hóa sản xuất; với sự hỗ trợ của vật liệu siêu dẫn, máy tính cá nhân và internet, nhờ đó mà thế giới trở nên “phẳng”, và gần gũi với nhau hơn; thay thế hầu hết lao động của con người thông qua hệ thống máy móc tự động hóa hoàn toàn, từ đó thay đổi chức năng và vị trí của con người trong hệ thống sản xuất xã hội; đồng thời chuyển sản xuất sang nền sản xuất trên cơ sở các ngành công nghệ cao). Cuộc CMCN lần thứ tư (CMCN 4.0) được bắt đầu vào đầu thế kỷ XXI (với đặc trưng là “sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học” [8, tr.4], được xây dựng dựa trên cuộc cách mạng số).

Từ trước đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu chủ đề tác động của của CMCN đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, giáo dục nói riêng. Bài viết này góp phần làm rõ hơn tác động của CMCN 4.0 đối với nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trong các trường đại học; từ đó, đề xuất những giải pháp đổi mới đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục hiện nay.

2. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với nội dung dạy học

Hiện nay, tốc độ lan tỏa của CMCN 4.0 trong nền kinh tế rất lớn, ở mọi lĩnh vực, đặt ra thách thức chưa từng có đối với lực lượng sản xuất xã hội. CMCN 4.0 sẽ thay đổi bức tranh của thị trường lao động, làm thay đổi mạnh mẽ nhu cầu về nguồn nhân lực, cơ cấu ngành nghề và trình độ. Yêu cầuđặt ra đối với quá trình giáo dục hiện nay là cần đáp ứng nhu cầu xã hội, cần đào tạo ra những người lao động có đủ kỹ năng mới để thích nghi với biến đổi nhanh chóng của môi trường sản xuất, kinh doanh. Nếu như trước đây, nội dung đào tạo chỉ chú trọng vào việc truyền tải kiến thức hàn lâm, thì hiện nay, những kiến thức đó nhanh chóng trở nên lạc hậu, thậm chí vô dụng trong nhiều môi trường doanh nghiệp, xí nghiệp năng động. CMCN 4.0 đòi hỏi người lao động cần có đủ kiến thức cơ bản, các kỹ năng và khả năng tự học trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh. Các nội dung đó bao gồm: các kiến thức và kỹ năng liên quan tới nhận thức, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, khả năng ứng phó với thay đổi, khả năng làm việc sáng tạo; kỹ năng về thể chất: kỹ năng ngôn ngữ và giao tiếp, kỹ năng số và kết nối internet; kỹ năng về xã hội: giao tiếp, ứng xử, giải quyết xung đột, làm việc theo nhóm, tạo lập và duy trì quan hệ…

Việc đào tạo cái gì, đào tạo như thế nào không chỉ căn cứ vào những gì mà nhà trường có, mà còn cần chú trọng tới nhu cầu, khả năng của từng người học và của cả xã hội. Dưới tác động của CMCN 4.0, một số công việc sẽ biến mất và con người sẽ bị thay thế bởi robot trong lao động. Vì vậy, nhà trường cần trang bị cho người học cả những kỹ năng và kiến thức cơ bản lẫn tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi để tránh nguy cơ bị đào thải; đồng thời trang bị cho người học những công cụ để tự giải quyết vấn đề với cái nhìn đa diện, giải quyết xung đột.

Dưới tác động của CMCN 4.0, toàn bộ quá trình sản xuất, tái sản xuất xã hội đều thay đổi. Trí tuệ nhân tạo và nhà máy thông minh dần dần thay thế lao động chân tay và thậm chí cả lao động trí óc của con người. Muốn tồn tại, muốn có việc làm, bản thân người lao động cần thay đổi. Muốn tồn tại, muốn tuyển sinh được, các trường đại học cần phải tiếp cận việc dạy và học theo cách mới, lợi dụng tối đa những tiến bộ công nghệ và vạn vật kết nối (IoT) để tạo nên chất lượng riêng cho từng trường. Trường đại học không chỉ dành cho những người có thể suốt ngày đi học, mà cần dành cả cho những người chỉ có thể chắt chiu thời gian để đầu tư cho tương lai. Các trường đại học cần định hướng lại những ngành nghề đào tạo, những lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu để đón đầu, bám sát yêu cầu của thị trường trong nước, trong khu vực và thế giới.

3. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với phương pháp dạy học

Để giúp người học tiếp cận nhanh với công nghệ mới, quá trình dạy học và đào tạo nghề cũng cần ứng dụng các công nghệ mới nhất của cách mạng 4.0, để biến người giáo viên trở thành một chuyên gia trong lĩnh vực nghề nghiệp. Quá trình dạy học không đơn thuần được triển khai trên giấy bút, theo hình thức lớp học truyền thống, mà cần có sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ, thông qua các lớp học trực tuyến. Điều này cho phép giáo viên có thể phát huy hết khả năng, tạo môi trường thuận lợi cho người học tự học, tự tiến bộ, tự tư duy. Thông qua việc cải tiến chất lượng làm việc của thầy và trò, với sự hỗ trợ của các thiết bị nghe - nhìn - kỹ thuật số, giáo dục thời đại 4.0 giúp tăng cường thông tin liên tục, bổ sung chuẩn xác vào độ xác thực của nhiệm vụ học tập và thông tin nâng cao; giúp tăng động cơ của người học; thúc đẩy việc học độc lập và trang bị cho người học cách tự kiểm soát việc học của mình; phát triển tư duy người học ở cấp độ cao hơn, có năng lực ứng dụng kiến thức và kỹ năng phân tích vấn đề thách thức, nắm bắt khái niệm rộng, có khả năng sáng tạo ý tưởng và đưa ra giải pháp mới. Không chỉ đóng khung trong kiến thức hàn lâm, khoa học cơ bản, với khối lượng tài liệu, giáo trình đồ sộ, nhà trường cần phải kết nối với các doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, từ đó, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc liên kết, tự chủ và nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng cho giảng viên của trường.

Đặc biệt, trong môi trường giáo dục của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, người thầy còn đảm nhiệm thêm các vai trò xúc tác, điều phối và hướng dẫn người học nắm bắt được các nhu cầu, xu hướng mới cũng như chuẩn bị cho họ các công cụ cần thiết để tự học, tự rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Trước lượng kiến thức và thông tin khổng lồ của thời đại, giảng viên cần sử dụng nhiều phương pháp, phương tiện kết nối internet để điều chỉnh định hướng chất lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin, tạo nên tương tác tích cực và hỗ trợ hiệu quả cho người học, cung cấp cho họ những tri thức mới và năng lực giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo, góp phần tạo nên các công dân toàn cầu.

4. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với hình thức tổ chức dạy học

Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, người giảng viên phải đóng vai trò là tác nhân tích cực tác động tới người học thông qua việc tìm tòi phương thức và cấu trúc hỗ trợ người học phát triển các kỹ năng học tương tác, học công tác và học độc lập; giúp hình thành tư duy phản biện, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học trong người học, từ đó giúp họ có thể tự học, tự đổi mới suốt đời. Muốn vậy, bên cạnh những kiến thức chuyên môn, giảng viên còn phải là người chủ học thuật hỗ trợ tâm lý con người, tâm lý xã hội, cung cấp các dịch vụ hướng dẫn cho người học; làm chủ các công nghệ nhằm trao quyền cho người học được phép sử dụng công cụ và công nghệ trong cải tiến việc dạy và học. Họ phải mài sắc kỹ năng của mình trên quan điểm, phương pháp dạy - học có tính cạnh tranh với công nghệ số. Khi thay đổi trong cách dạy, cách học, giáo dục sẽ thay đổi cách đánh giá người học không còn đóng khung trong các lớp học và giờ học trên lớp. Bên cạnh đánh giá kiến thức lý thuyết, cần kết hợp đánh giá các kỹ năng mà người học được đào tạo, cũng như thái độ đối với nghề nghiệp bản thân.

Hoạt động quản trị trong các trường đại học cũng cần đổi mới nhằm tạo ra những “sản phẩm” có chất lượng (những người lao động tương lai có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh). CMCN 4.0 đòi hỏi phải thay đổi phương thức và phương pháp đào tạo, với việc ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Việc đưa các mô hình đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa vào áp dụng sẽ trở nên phổ biến tác động tới việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của nhà trường. Các trường cần chuyển đổi sang mô hình đào tạo theo nhu cầu xã hội, gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp, hoặc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để chia sẻ các nguồn lực chung, trong đó lấy người học làm trung tâm và ứng dụng công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng.

5. Giải pháp đổi mới đào tạo giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục do sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0

Thư nhất, đổi mới nhận thức về vai trò của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Ngày nay, do sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, giáo viên cần có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa chọn nội dung giáo dục; sử dụng tối đa những nguồn tri thức trong xã hội; sử dụng rộng rãi hơn những phương tiện dạy-học hiện đại; hợp tác rộng rãi và chặt chẽ hơn với các giáo viên cùng trường.

Giáo viên cần phải là một nhà khoa học, phải truyền được cảm hứng tới người học, thúc đẩy và lan tỏa cả nhân cách, thái độ và kỹ năng nghề nghiệp của mình cho người học. Đặc biệt, giảng viên sư phạm cần là người có ý tưởng mới, đi trước thời đại, khai sáng, thúc đẩy, tìm tòi và tạo điều kiện cho người học phát triển.

Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý cần đổi mới. Việc xuất hiện những hình thức dạy - học mới đòi hỏi công tác quản lý chung cũng cần thay đổi bắt kịp với mặt bằng chất lượng, đảm bảo đáp ứng nhu cầu đa dạng của kinh tế - xã hội. Chất lượng của đội ngũ quản lý giáo dục cần được nâng cao một bước. Cần tăng cường phân cấp, phân quyền và tự chịu trách nhiệm; giảm dần sự can thiệp của các cơ quan chủ quản vào hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường; cần tăng cường sự chuyên nghiệp, chuẩn hóa trong đội ngũ quản lý giáo dục ở các cấp; tăng khả năng sử dụng các công cụ quản lý hiện đại vào quản lý giáo dục.

Thứ hai, cần liên tục đổi mới tư duy về phát triển giáo dục. Trong tổng thể chiến lược phát triển quốc gia, đào tạo đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh CMCN 4.0, vai trò của nhà nước rất quan trọng, nhất là trong việc xây dựng mối quan hệ tương tác với thị trường lao động, tạo động lực phát triển nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, cần hoàn thiện hành lang pháp lý cần thiết; khuyến khích phát triển thị trường nhân lực chất lượng cao, thị trường sản phẩm khoa học công nghệ; tạo căn cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược và chính sách phát triển giáo dục. Cần có chính sách cụ thể để phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các trường đại học; gắn kết các trường đại học với các doanh nghiệp và đẩy mạnh việc đưa kết quả các công trình nghiên cứu khoa học của các trường vào ứng dụng trên thực tế. Đối với các trường sư phạm, Nhà nước cần nhanh chóng và quyết tâm cơ cấu có định hướng và quy hoạch hệ thống tổng thể mạng lưới các trường đại học sư phạm trong cả nước; khắc phục những chồng chéo, liên kết không có tính hệ thống mang tính “mạnh ai người đó làm” của toàn ngành sư phạm; có những ưu đãi để tuyển người có năng lực và tâm huyết phù hợp vào học sư phạm, có những dự báo về đào tạo để góp phần vào giải quyết những khó khăn trong vấn đề việc làm cho người học sư phạm sau khi ra trường, nhanh chóng tiếp tục khẳng định niềm tin của xã hội vào đội ngũ giảng viên, giáo viên nhà trường và công tác giáo dục các cấp.

Thứ ba, các trường sư phạm phải nhanh chóng đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phương thức đánh giá kết quả học tập theo chuẩn đầu ra của người học đáp ứng nhu cầu của xã hội; cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ giáo dục tiên tiến; áp dụng đào tạo online; kết nối mạng để bồi dưỡng năng lực nghề cho người học sư phạm, giáo viên, giáo sinh tập sự trong hệ thống nối mạng thống nhất trong toàn quốc và trên toàn cầu; đẩy mạnh công tác bồi dưỡng - đào tạo giáo viên theo hướng thực học, thực nghiệp, tăng cường khả năng sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học; tập trung nguồn lực đầu tư cho hoạt động nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý giáo dục ở các trường sư phạm. Các trường sư phạm có những chương trình học tập công nghệ tiến bộ, hay hợp tác sâu rộng với giới công nghệ trong đào tạo và nghiên cứu, sẽ có ưu thế thu hút người học hơn. Trong CMCN 4.0, các trường sư phạm càng phải tăng cường gắn với thực tiễn dạy - học ở phổ thông; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy - học tiên tiến; nâng cao đãi ngộ người thầy có trình độ, mạnh dạn ứng dụng công nghệ vào quá trình dạy học. Đặc biệt, cần tôn vinh theo đúng nghĩa nghề dạy học, đi đôi với đề cao đổi mới vai trò của người thầy trong điều kiện giáo dục và đào tạo hiện nay.

Thứ tư, tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng và công nghệ cho giáo dục, thông qua việc xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho việc thu hút các nguồn ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo giáo viên. Bên cạnh chính sách đào tạo, cũng cần có chính sách thu hút nhân tài, giữ chân cán bộ giỏi ở các trường sư phạm, hoặc áp dụng thông qua các hình thức liên kết, hợp tác, giao lưu cán bộ, chuyên gia trong và ngoài nước trong hoạt động giảng dạy, cũng như đẩy mạnh hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, cần gắn hoạt động đào tạo giáo viên ở trường sư phạm với thực tiễn dạy - học ở các bậc giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, đầu tư nhiều hơn về công nghệ giáo dục tiên tiến, lấy hoạt động của người học làm trung tâm, thông qua kết nối mạng để bồi dưỡng phát triển năng lực sư phạm cho người học, giáo viên, trong mối liên hệ chung với hệ thống giáo dục quốc gia và toàn cầu.

Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, thông qua đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ, phương tiện dạy học và công nghệ thông tin trong công tác dạy - học và quản lý đào tạo; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học ở các trường, gắn chặt việc nghiên cứu với chuyển giao công nghệ tại cơ sở. Cần xây dựng nên cơ chế phối hợp giữa nhà trường sư phạm với các trường phổ thông, với các cơ sở trong hệ thống giáo dục, để xây dựng các hình thức hợp tác dạy - học thích hợp; tạo điều kiện cho người học thực hành nghề, phát triển nghiên cứu chuyên sâu theo đơn đặt hàng của chính quyền các địa phương, từ đó, có khả năng sớm nắm bắt xu thế công nghệ của CMCN 4.0. Các trường sư phạm cũng cần chủ động tăng cường trao đổi học thuật, giao lưu nghiên cứu khoa học với các viện nghiên cứu ở trong và ngoài nước, hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, nhất là với các quốc gia có nền khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo tiên tiến.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục, đặc biệt với các cơ sở đào tạo sư phạm hàng đầu trên thế giới, với nhiều hình thức (như nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật, liên kết đào tạo, công nhận chứng chỉ quốc tế, trao đổi người học với các trường đại học nước ngoài, trao đổi hợp tác giáo viên, quốc tế hóa các chương trình đào tạo trình độ đại học), áp dụng tiêu chí hội nhập quốc tế, quốc tế hóa trong đánh giá giáo dục đại học. Đặc biệt, Nhà nước cần thu hút và sử dụng các nguồn đầu tư nước ngoài có sẵn, nhằm nâng cao năng lực cho giáo viên, tăng cường năng lực giảng dạy, tăng cơ hội tiếp cận tri thức nghề mới, tăng khả năng nghiên cứu khoa học. Đây sẽ là một “cú hích”, một động lực cạnh tranh cho các trường đại học Việt Nam.

6. Kết luận

Trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0, các trường đại học có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo tri thức mới, chuyển giao và chia sẻ tri thức, ứng dụng tri thức và công nghệ hiện đại, cũng như đào tạo nguồn nhân lực. CMCN 4.0 đã làm thay đổi toàn bộ nền sản xuất xã hội, từ đó kéo theo những biến đổi căn bản của thị trường lao động quốc gia. Điều đó đòi hỏi ngành giáo dục, nhất là giáo dục đại học, cần có những thay đổi phù hợp. Các trường đại học cần tiếp tục đổi mới tư duy về phát triển giáo dục và đào tạo; đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phương thức đánh giá kết quả học tập; đổi mới công tác bồi dưỡng và đào tạo giáo viên theo hướng thực học, thực nghiệp; tăng cường khả năng sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học; có chính sách thu hút nhân tài; tăng cường liên kết, hợp tác, giao lưu cán bộ, chuyên gia trong hoạt động giảng dạy; hình thành các trường đại học nghiên cứu; tạo môi trường giáo dục đại học có tính sáng tạo cao; tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng và công nghệ cho giáo dục; thu hút các nguồn ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo giáo viên; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác dạy - học và quản lý đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục.

Tài liệu tham khảo

[1] Phạm Tuấn Anh, Huỳnh Thành Công, Phạm Minh Khôi (2016), “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: bối cảnh, các xu hướng lớn và những sản phẩm điển hình”, Tạp chí Tự động hóa ngày nay, số 5.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Lưu hành nội bộ), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

[3] Nguyễn Hùng Hậu (2017), “Một số vấn đề triết học của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.

[4] Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam (2017), Kỷ yếu Hội thảo quốc tế - Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và ứng dụng tại các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

[5] Trần Thị Vân Hoa (Chủ biên) (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0 - Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Hà Nội.

[7] Klaus Schwab (2016), The Fouth Industrial Revolution, First edition, ISBN: 9781524758868, Crown Business, New York, USA.

[8] http://thuvienso.dastic.vn:8080/dspace/bitstream/TKHCNDaNang_123456789/41/1/TL8_2016%20-%20Cuc%20TT.pdf

[9] http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Giao-ducdai-hoc-phai-lam-gi-truoc-thach-thuc-cuacach-mang-cong-nghiep-40-post178343.gd

[10] http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/So-phancua-cac-truong-su-pham-se-ra-sao-khi-cuoccach-mang-cong-nghiep-40-toi-post172154.gd

http://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Cachmang-cong-nghiep-lan-thu-tu-Uu-tien-caicach-the-che-va-doi-moi-giao-duc-10772

1. Công nghệ 4.0 trong giáo dục là gì?

Tìm hiểu Công nghệ 4.0 là gì

Công nghệ 4.0 trong giáo dục là hệ thống giáo dục hiện đại áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vượt trội của thời đại công nghiệp 4.0 vào trong giáo dục. Trong đó người họcđược giáo dục kiến thức và kỹ năng liên ngành nhất là các kỹ năng quản trị và kỹ năng điều khiển máy móc. Giáo dục được phát triển như một hệ sinh thái, nơi mà mọi yếu tố được liên kết với nhau thông qua không gian mạng và điện toán đám mây. Quan hệ dạy và học được mở rộng không chỉ giữa giáo viên với học sinh mà còn là học sinh với học sinh, học sinh với mọi người xung quanh, học sinh với nguồn kiến thức mở…

Giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Ngày phát hành: 22/06/2019 Lượt xem 12385

1. Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Lịch sử loài người đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp: Lần thứ nhất gắn với sự ra đời máy hơi nước (vào đầu thế kỷ XVIII); lần thứ hai gắn với sự ra đời của điện (vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX); lần thứ ba gắn với sự ra đời máy tính (thập kỷ 1960); và lần thứ tư gắn với sự tích hợp của nhiều công nghệ mà chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thuật ngữ “cách mạng công nghiệp 4.0” lần đầu tiên được nói đến ở Đức năm 2011, đến nay đã được sử dụng rộng rãi, bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Thành tựu mà các cuộc cách mạng công nghiệp mang lại rất to lớn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội loài người. Với những tiến bộ khoa học - công nghệ, máy móc thay thế dần sức lao động của con người, hình thành các mô hình sản xuất, kinh doanh mới, năng suất lao động ngày càng cao, sản lượng của cải vật chất được tạo ra ngày càng nhiều. Nhờ đó, cuộc sống của loài người ngày càng được nâng cao; khả năng tư duy, cách sống và phương pháp quản lý xã hội cũng thay đổi theo hướng ngày càng khoa học hơn. Từ gần 200 năm trước, C.Mác từng dự đoán về vai trò to lớn của khoa học - công nghệ, coi sự phát triển tri thức là đặc trưng lớn nhất của các cuộc cách mạng công nghệ: Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp... Các nhà nghiên cứu cho rằng, tất cả các yếu tố của Cách mạng công nghiệp 4.0, từ phát triển tri thức, tiến bộ kỹ thuật, năng suất lao động, lượng của cải tạo ra, đến các biến đổi về cấu trúc của nền hành chính - thể chế, quản lý - quản trị đều có sự phát triển với tốc độ theo cấp số nhân. Theo đó, một quốc gia muốn phát triển nhanh, theo kịp tốc độ của các nước tiên tiến thì phải xây dựng được chiến lược thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trung tâm của cuộc cách mạng 4.0 là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với nhau, mà còn là con người giao tiếp với máy, với đồ vật; và đồ vật giao tiếp với nhau. Nó tác động mạnh mẽ đến tất cả các ngành công nghiệp, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cho phép xã hội loài người có cuộc sống ngày càng đầy đủ, phồn vinh hơn. Đồng thời, nó cũng tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến bất bình đẳng, thất nghiệp khi công nghệ mới sẽ dần thay thế sức lao động của con người. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra sự phát triển với tốc độ theo cấp số nhân, từ các yếu tố, như tri thức, tiến bộ kỹ thuật, năng suất lao động, lượng của cải tạo ra, cho đến các biến đổi về cấu trúc của nền hành chính - thể chế, quản lý - quản trị.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Nền sản xuất “tự động” đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ 3 sẽ sớm chuyển sang nền sản xuất “thông minh”, trong đó các máy móc được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành toàn bộ quá trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước. Làn sóng công nghệ mới với sản xuất thông minh sẽ giúp công nghệ phát triển và kéo theo năng suất tăng cao. Nhưng để có thể áp dụng được “sản xuất thông minh” vào thực tiễn thì không thể thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, một quốc gia muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải xây dựng chiến lược để thực hiện, đặc biệt là giáo dục và đào tạo. Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành giáo dục nước ta là phải có định hướng cụ thể để thích ứng với thời đại mới, để đào tạo ra nguồn nhân lực tốt, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường lao động hiện đại.

2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục đại học của Việt Nam

Sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục đại học là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức.

Thứ nhất,cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhu cầu đào tạo rất lớn cho các trường đại học. Trước hết, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất, vốn liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Đây là yêu cầu cấp bách đặt ra cho nền giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Do đó, ngành giáo dục phải chuyển nhanh từ giáo dục nặng về trang bị kiến thức sang một nền giáo dục giúp phát triển năng lực, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo cho người học. Như thế, ở các trường đại học sẽ ra đời các mô hình học tập mới cùng sự phát triển của khoa học - công nghệ, thay thế dần các phương pháp dạy- học truyền thống.

Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Hệ thống giáo dục đại học sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục ngành nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt ngành, chuyên ngành cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành, chuyên ngành đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo lần đầu cho giới trẻ, mà còn đòi hỏi những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư phải thay đổi, cập nhật kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo các nhà phân tích, năm 2020, nước ta sẽ cần một triệu cán bộ công nghệ thông tin, tuy nhiên hiện nay chúng ta mới có 300.000. Chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này đã là cơ hội lớn cho các trường đại học.

Thứ hai,cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mọi hoạt động trong các trường đại học. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, từ đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra, với sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của công nghệ, người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống, mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Các trường phải thay đổi mô hình giảng dạy, như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giảng viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng internet. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo đại học trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức nào đó. Sinh viên có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay để trở thành công dân toàn cầu - người lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần thưởng đối với sinh viên không còn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, là trao đổi tri thức, sáng tạo, những giá trị đóng góp cho xã hội. Khi đó, tổ chức, doanh nghiệp tuyển dụng là cần người làm được việc chứ không cần người có văn bằng cao. Như vậy, các trường đại học sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn học cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở đào tạo với tổ chức, doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giảng viên của các trường đại học. Khi đó, tất cả các dữ liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều được số hóa tại một nơi lưu trữ. Trong nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần đưa tài liệu lên “mây” (cloud), tất cả mọi người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, hiệu quả và tính đồng bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay đổi mô hình đào tạo thì sẽ bị lạc hậu, sẽ không có người học. Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào, thì người học sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đây thực sự là một thách thức vì hầu như các trường hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ giảng viên giảng dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một trong những điểm chính khiến các ứng dụng khoa học - công nghệ chưa phát triển mạnh trong các trường đại học.

Trong môi trường cách mạng công nghiệp 4.0, mỗi sinh viên có nhu cầu và năng lực học tập khác nhau sẽ được thiết kế tiến độ học tập riêng biệt, phù hợp với từng người. Các phần mềm đào tạo sẽ thay thế từng phần hoặc toàn bộ lượng kiến thức của giáo trình khi học trên lớp. Thay vì tập trung cung cấp cho người học các kiến thức, kỹ năng, mô hình giảng dạy mới chủ yếu hướng dẫn sinh viên cách tự học, cách tư duy và xử lý các tình huống trong cuộc sống, qua đó hình thành năng lực tiếp cận và giải quyết vấn đề.

Đối với đội ngũ giảng viên, hệ thống quản lý nhà trường có sự hỗ trợ của công nghệ sẽ cung cấp hệ thống dữ liệu giúp họ theo dõi diễn biến, sự tiến bộ của mỗi lớp học, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập của sinh viên. Do đó, giảng viên cần phải nỗ lực học tập, nghiên cứu để có thể tận dụng và làm chủ công nghệ, để những công cụ này hỗ trợ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong công tác đào tạo.

Trước những đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng cao, để phù hợp với môi trường sản xuất mới, các hoạt động đào tạo của các trường đại học càng phải được gắn kết với tổ chức, doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển khai. Đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp. Tăng cường việc gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của trường đại học nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, thông qua đó hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.

3. Một số định hướng đối với giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Xác định rõ những thách thức đang đặt ra đối với ngành giáo dục và đào tạo, Đảng ta nhấn mạnh quan điểm: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”[1]. Thực hiện chủ trương đó, các trường đại học cần phải đổi mới thực sự và nhanh chóng, trước hết là đổi mới hoạt động quản lý của nhà trường và đội ngũ giảng viên.

3.1. Định hướng đối với Nhà trường

Các trường đại học cần chuyển mô hình đào tạo từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học; từ đào tạo chủ yếu theo số lượng sang nâng cao cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; từ chỉ chú trọng truyền đạt kiến thức sang kết hợp ba mục tiêu: kiến thức, kỹ năng và thái độ để phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân. Đối với sinh viên, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, xử lý tình huống, rèn luyện tư duy. Không chỉ học trong giáo trình, sách vở, mà phải học qua thực hành, thực tế kinh tế- xã hội, qua trò chơi, liên hệ tương tác, qua dự án, và phải xác định học là công việc thường xuyên, liên tục và học cả đời.

Chương trình đào tạo cần xác định cụ thể các chuẩn đầu ra, phẩm chất chung và năng lực chuyên môn; phải nhanh chóng đổi mới từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục, nhất là đánh giá sinh viên tốt nghiệp. Mục tiêu đào tạo phải hướng tới sinh viên ra trường có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Trường đại học phải là nơi dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh viên khởi nghiệp, kết nối với thị trường và doanh nghiệp.

Như vậy, hệ thống giáo dục đại học phải tập trung vào phát triển phẩm chất và năng lực của người học thông qua việc định hướng các con đường phù hợp nhất cho các nhóm sinh viên khác nhau để giúp họ phát huy được tiềm năng của mỗi cá nhân. Thương hiệu của một trường đại học không chỉ được đánh giá thông qua tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm, nhất là đúng ngành, vị trí trên bảng xếp hạng quốc gia, quốc tế, mà còn là sự phát triển bền vững của sinh viên, khả năng thích ứng với môi trường làm việc mới, năng lực đổi mới và sáng tạo trong quá trình hoạt động chuyên môn. Để đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học cần có nhiều chương trình, cả đào tạo và bồi dưỡng dành cho các đối tượng khác nhau, nhất là cựu sinh viên, giúp họ cập nhật tri thức mới để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính mình. Nghĩa là các trường phải là nơi hỗ trợ sinh viên học tập suốt đời; phải thường xuyên đổi mới. Cụ thể:

Một là, thường xuyên rà soát, đổi mới chương trình đào tạo, gắn lý thuyết với thực tiễn. Công tác đào tạo đại học trước hết cung cấp hệ thống lý luận cơ bản, như là nền tảng vững chắc để sinh viên có “vốn” để tiếp cận những vấn đề thực tiễn đang biến đổi không ngừng. Tạo điều kiện tối đa cho sinh viên thực hành, thực tập, làm quen và nắm bắt được những tiến bộ của khoa học - công nghệ trên lĩnh vực được đào tạo.

Hai là, đa dạng hóa các chương trình, phục vụ mọi nhu cầu học tập của sinh viên. Mỗi sinh viên có nhu cầu và khả năng học tập khác nhau. Nhà trường xây dựng cơ chế để phát hiện, nuôi dưỡng và tạo động lực để sinh viên xác định và theo đuổi sự quan tâm, niềm đam mê của mình. Điều này đòi hỏi trường đại học xây dựng các chương trình, lộ trình đào tạo khác nhau để phục vụ cho những nhu cầu và phong cách học tập khác nhau. Có người có nhu cầu học nhanh, tốt nghiệp sớm; hoặc học tập trung vào một số môn trọng tâm trước, sau khi đi làm sẽ quay trở lại hoàn thiện chương trình.

Ba là, đẩy mạnh học ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình dạy-học và quản trị nhà trường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng như hiện nay, ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh là chìa khóa để mở rộng, cập nhật tri thức nhân loại. Không giỏi ngoại ngữ, không thể đạt thành tựu về khoa học công nghệ. Nên ứng dụng công nghệ tiên tiến trong giảng dạy ngoại ngữ, với hệ thống học liệu điện tử phù hợp mọi đối tượng để người học có thể học ngoại ngữ mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện, đặc biệt trong phát triển kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Kiến tạo môi trường học ngoại ngữ trong nhà trường, gia đình và xã hội để mọi người cùng nhau học ngoại ngữ. Tạo điều kiện cho người học tiếp cận kỹ thuật số và công nghệ để dễ dàng tiếp thu thành tựu mới về khoa học - công nghệ của thế giới.

Bốn là, phải xây dựng các trường đại học thành các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Các trường đại học cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc thực hiện sứ mệnh nghiên cứu khoa học- công nghệ; là bệ đỡ thúc đẩy sáng tạo, cung cấp một bệ phóng cho giới trẻ và các công ty khởi nghiệp, giữ nhịp phát triển cho các ngành công nghiệp. Các trường đại học cũng cần đón đầu xu hướng là thời gian đào tạo người lao động trình độ cao sẽ không chỉ giới hạn trong thời gian ngắn, mà là trong suốt cuộc đời lao động của họ, khi người học tiếp tục quay trở lại để có thêm kiến thức và kỹ năng sau khi tốt nghiệp.

3.2. Định hướng đối với đội ngũ giảng viên

Theo phương pháp giáo dục truyền thống, người thầy truyền tải tri thức, thông tin cho sinh viên, hiện nay các trang mạng trên In ternet đang dần thay thế vai trò đó, cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, tiện lợi và miễn phí. Sinh viên không còn bị giới hạn trong bốn bức tường phòng học mà có điều kiện học mọi lúc mọi nơi, mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Vấn đề đặt ra là, khi công nghệ hỗ trợ tối đa mục tiêu kiến thức và kỹ năng, nhưng không thể thay thế người thầy chuyền tải, truyền cảm hứng cho sinh viên về thái độ sống và làm việc, thích ứng với mọi thay đổi, về tính hợp tác và năng lực sáng tạo. Hiện nay, năng lực và thái độ có vai trò quyết định trong mục tiêu đào tạo của các Nhà trường. Kiến thức không chỉ được tiếp nhận thông qua giáo trình, tài liệu tham khảo, trên lớp, mà được bổ sung, đổi mới và nhân lên từng giờ từng phút, sinh viên có thể dễ dàng học tập, nhưng phải qua đối thoại, làm việc nhóm, phản biện vấn đề, người thầy sẽ kích thích năng lực tư duy, niềm đam mê nghiên cứu và khám phá cái mới trong sinh viên.

Các hình thức học online, học trực tuyến đòi hỏi người thầy không phải truyền thụ kiến thức nữa, mà phải là người hướng dẫn, điều phối tạo ra môi trường học tập cho sinh viên; không phải giảng bài mà tập trung giúp sinh viên định hướng việc học. Người giảng viên không chỉ phải giỏi về chuyên môn, sẵn sàng giải đáp câu hỏi của sinh viên, mà còn phải có bản lĩnh, thường xuyên nâng cao năng lực thích ứng với hoàn cảnh mới, nhất là kịp thời đổi mới phương pháp dạy học, tối đa hóa ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện trực quan vào quá trình dạy học.

Vì vậy, vai trò của giảng viên thay đổi mạnh mẽ. Để đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0, đội ngũ giảng viên cần phải được bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực bằng những biện pháp như tập huấn sử dụng công nghệ phục vụ dạy học, ứng dụng các hình thức tiên tiến, mô hình trực tuyến vào công tác bồi dưỡng giảng viên, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng theo hướng nghiên cứu và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Cụ thể:

Một là, nâng cao năng lực chuyên môn. Phải bồi dưỡng cho giảng viên nắm bắt được và tham gia các hình thức đào tạo tiên tiến, đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa để vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới, qua đó giúp họ bổ sung kiến thức chuyên môn, đa dạng hóa các hình thức giảng dạy. Trong thời gian tới, các mô hình giảng dạy trực tuyến sẽ được ứng dụng trong đào tạo đại học, như E-learning (mô hình hệ thống quản lý qua mạng); B-learning (mô hình dạy học kết hợp học tập trên lớp và học hợp tác qua mạng và tự học); hội thảo truyền hình (nhiều người hội thảo từ xa, thông qua truyền hình trao đổi, giao tiếp với nhau). Trong thời đại hiện nay, cần nhân rộng mô hình liên kết giữa nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên đổi mới, sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn.

Hai là, nâng cao năng lực sử dụng các thiết bị, phương tiện hiện đại trong giảng dạy. Đó là năng lực quản lý tài nguyên, dữ liệu trên internet, sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ mới phục vụ quá trình dạy học. Vì vậy, đội ngũ giảng viên phải thường xuyên được học tập, bồi dưỡng về tin học, phương pháp sử dụng công nghệ thông tin, để chủ động hướng dẫn sinh viên cập nhật kiến thức và công nghệ.

Ba là, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu khoa học được áp dụng đầu tiên và trước hết vào công tác giảng dạy. Khi đó, nội dung bài giảng mới có chiều sâu, tạo điều kiện để giảng viên ứng dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại. Thông qua nghiên cứu khoa học, năng lực tư duy của giảng viên được rèn luyện và tăng cường.

Bốn là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ. Hiện nay, tiếng Anh là ngôn ngữ mang tính toàn cầu. Hầu hết các thành tựu khoa học- công nghệ được chuyển tải bằng tiếng Anh. Vì vậy, để kế thừa và tiếp thu những tinh hoa tri thức của thế giới, giảng viên đại học phải thông thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc của các đại học tiên tiến trên thế giới.

Như vậy, trường đại học trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu khoa học, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên, nâng cao năng suất lao động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Hiện nay, số lượng sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập ngày càng tăng, đang đặt ra thách thức lớn đối với các trường đại học trong nước. Vì vậy, các trường phải xây dựng chiến lược phát triển thích ứng với thời kỳ mới, mạnh dạn đổi mới công tác đào tạo, từ đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy đến xây dựng đội ngũ giảng viên, đổi mới công tác quản trị nhà nước theo những tiêu chí mới- khoa học và hiện đại. Có như vậy, các trường đại học nước ta mới theo kịp các trường tiên tiến trên thế giới và khu vực, và đáp ứng được những yêu cầu của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0./.

PGS.TS Lưu Văn An

Học viện Báo chí và Tuyên truyền




[1] Ban chấp hành Trung ương khóa XI: Nghị quyết số 29-NQ/TWVề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, 2013.