Với hình thức nhân cách hoá loài vật, truyện đồng thoại được xem là một thể loại rất thích hợp với trẻ em, nhất là các em ở lứa tuổi nhi đồng. Vì thế, qua nhiều giai đoạn lịch sử, truyện đồng thoại đã không ngừng phát triển, thực sự là một dòng chảy mạnh mẽ, tạo được ảnh hưởng rộng rãi ở cả trong lẫn ngoài nước. Vào những năm cuối thế kỉ XX, trong tình trạng khủng hoảng chung của văn học thiếu nhi, truyện đồng thoại cũng không tránh khỏi những khó khăn do sự xâm nhập mỗi lúc một mạnh mẽ của văn học thiếu nhi nước ngoài. Tuy nhiên, bước vào thế kỉ XXI, thể loại này tìm được những điều kiện thích hợp để hồi sinh, và do vậy, đã trở lại với công chúng nhỏ tuổi một cách đĩnh đạc hơn. Điểm qua một số sự kiện như thế để thấy vai trò của truyện đồng thoại trong việc làm nên không khí, sắc màu cho đời sống văn học thiếu nhi nước nhà những năm đầu thế kỉ mới này. Cố nhiên, chúng ta không nghĩ đơn giản rằng, ảnh hưởng của truyện đồng thoại chỉ nhờ vào mấy tác phẩm kể trên. Bởi trên thực tế, giai đoạn này, chúng ta có nhiều, rất nhiều tác phẩm đồng thoại khác nữa. Thống kê cho thấy, qua gần 15 năm, số đồng thoại được viết ra là 569 tác phẩm, gần bằng số đồng thoại được viết ra trong thế kỉ XX (656 tác phẩm). Có thể nói, đồng thoại đã trở lại một cách mạnh mẽ, bắt đầu có những bứt phá khá ấn tượng. Kết quả này, trước hết, do những thôi thúc nội tại của nền văn học. Như đã biết, trong thế kỉ XX, truyện đồng thoại đã lập thành một dòng chảy liên tục, do đó, đã tạo nên một quán tính văn hoá cần thiết cho thể loại khi bước vào thế kỉ XXI. Rõ ràng, những thành công cũng như hạn chế của truyện đồng thoại thế kỉ XX luôn đem lại cho người sáng tác hôm nay một số gợi ý nghề nghiệp thiết thực. Ở khía cạnh thành công, với đỉnh cao là Dế Mèn phiêu lưu ký, nó đảm bảo về khả năng thể loại giúp người viết tiếp tục gặt hái những thành công mới. Ở khía cạnh hạn chế, đồng thoại thế kỉ XX là một dấu chỉ, lưu ý về nguy cơ thất bại nếu “phạm” vào những hình thức đã từng làm xơ cứng thể loại. Nói tóm lại, đồng thoại thế kỉ XX là một quá khứ nhiều ý nghĩa, cả về lí luận lẫn kinh nghiệm sáng tạo. Trong sự thành bại của văn chương bất kì giai đoạn nào, vai trò của người viết bao giờ cũng là một yếu tố hết sức quan trọng. Lưu ý điều này để thấy, lực lượng người viết đồng thoại những năm đầu thế kỉ XXI khá đông đảo, gồm nhiều thành phần khác nhau. Bên cạnh những cây bút đã thành danh như Trần Đức Tiến, Nguyễn Nhật Ánh, Lưu Thị Lương, Nguyễn Trí Công, Nguyễn Châu, Nguyễn Thái Hải, Trần Hoàng Vy…, chúng tôi thấy còn có rất nhiều những người viết trẻ (chủ yếu ở khu vực TP. Hồ Chí Minh) tham gia. Họ mang đến cho công chúng trẻ thơ những tác phẩm thanh thoát, nhẹ nhàng, đầy ắp trải nghiệm tuổi thơ và một tình yêu thương loài vật vô bờ bến. Có thể kể đến Quân Thiên Kim với Những cuộc phiêu lưu của Kiến Nhóc (2008), Nguyễn Trần Thiên Lộc với Cuộc phiêu lưu của Mũi đỏ và Răng nhỏ (2012), Trần Huyền Trang với Cậu ấm đi bụi (2012), Đào Thu Hồng với Cuộc phiêu lưu của Ỉn Hồng (2013)… Cũng phải kể đến những tác giả như Trần Kim Lung, Nguyễn Đình Quảng, Hoàng Trọng Thắng… là những người khi viết văn đã ở vào cái tuổi làm ông, làm bà, mong muốn qua thể truyện đồng thoại truyền tải bài học giáo dục cho tuổi thơ. Trong đội ngũ những người viết đồng thoại hôm nay, chúng ta cũng ghi nhận sự góp mặt của hai cây bút trẻ người Việt sinh sống ở nước ngoài. Đó là Vũ Phương Nghi (Canada), tác giả Voi cà chua (Nxb Phụ nữ, 2012); và Farnhammer Mai Clara, viết cùng mẹ là Nguyễn Phan Quế Mai truyện Chạy đi, Mun ơi (Nxb Văn nghệ, 2012). Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hoạt động sáng tác của các nhà văn nói chung, các tác giả đồng thoại nói riêng ít nhiều đều có chịu ảnh hưởng từ những nền văn học lớn. Đúng vậy, trong nhiều năm qua, không ít đồng thoại thế giới nổi tiếng đã được giới thiệu ở Việt Nam. Có thể kể đến Gió qua rặng liễu của Kenneth Grahame (Anh), Những cuộc phiêu lưu của cô gà mái Emma của Claudine Aubrun (Pháp), Sắc màu đồng thoại của Vương Nghi Chấn (Trung Quốc), và mới đây là Chó dẫn đường phiêu lưu ký của thần đồng văn chương Nga Mikhail Samarsky… Những đồng thoại nổi tiếng của H. Andersen, G. Rodari… cũng được tái bản, khiến cho khối sách đồng thoại thế giới ngày một thêm bề thế.Xem thêm: Dã Yên Thảo ( Petunia Là Hoa Gì ? Cho Mình Hỏi Từ Petunias Là Tên Loài Hoa Gì Trong công tác phát hành, các nhà xuất bản đã sử dụng tối đa nghệ thuật quảng cáo nhằm thu hút sự chú ý của công chúng. Một ví dụ, năm 2009, cuốn Chuyện đồng thoại Nhật Bản của Midorikawa Shinichiro được xuất bản đúng vào dịp kỉ niệm 36 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản. Hay với Gió qua rặng liễu, nhà xuất bản Hội nhà văn không quên “đính kèm” bức thư của Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt gửi tác giả cuốn sách, bày tỏ lòng yêu thích câu chuyện thú vị của nhà văn. Sự xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm đồng thoại thế giới như vậy đã góp phần thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của các em. Mặt khác, đó cũng sẽ là một tham khảo tốt đối với nhà văn Việt Nam. Tuy chưa có những khảo sát cụ thể song có thể nói rằng, nhà văn Việt Nam đã tiếp thu được không ít kinh nghiệm sáng tạo từ bên ngoài. Những đồng thoại sử dụng cốt truyện phiêu lưu, chuyện con mèo Gấu si tình con chuột trong tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh… là những biểu hiện sinh động về mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn học Việt Nam và thế giới. Như vậy, hoạt động sáng tác truyện đồng thoại của các nhà văn đầu thế kỉ XXI diễn ra dưới tác động từ nhiều nguồn khác nhau. Với ưu thế của một thể loại giàu tưởng tượng, có khả năng mô tả thế giới tự nhiên lẫn đời sống xã hội, truyện đồng thoại đã đáp ứng tốt tiêu chí của công cuộc đổi mới văn học thiếu nhi những năm đầu thế kỉ mới này. Nhờ đó, nó được coi trọng, có cơ hội để “lên ngôi”, trở thành một thể loại yêu thích nhất của công chúng, không riêng trẻ em mà còn cả với người lớn. Qua hơn 10 năm, kho tàng truyện đồng thoại của chúng ta đã giàu có hơn rất nhiều, cho thấy có sự đổi thay cả về số lượng lẫn chất lượng nghệ thuật. Sự phát triển của đồng thoại những năm đầu thế kỉ XXI bao hàm cả việc kế thừa lẫn đổi mới, cách tân. Theo nhìn nhận của chúng tôi, nét mới của đồng thoại hôm nay thể hiện ở việc chủ động mở rộng đối tượng độc giả, dung lượng tác phẩm, đồng thời gia tăng chất tưởng tượng, chất hài và phiêu lưu. Trước đây, đồng thoại chủ yếu dành cho lứa tuổi nhi đồng nên nhà văn thường viết những tác phẩm nhỏ, gọn, chăm chú vào việc truyền đạt một bài học giáo dục nào đó cho các em. Vì thế, đã có không ít đồng thoại trượt ra khỏi đường ray thể loại, dịch chuyển sang khu vực ngụ ngôn. Gần đây, nhiều truyện đồng thoại có dung lượng lớn liên tục được xuất bản như: Chuyện kể của Tun (Võ Văn Trực), Khu vườn hạnh phúc (Nguyễn Thái Hải), bộ ba tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh… Với quy mô như vậy, người viết thuận lợi hơn trong việc miêu tả, khắc hoạ tính cách nhân vật, đưa vào tác phẩm nhiều lớp nội dung khác nhau… Kiểu truyện loài vật phiêu lưu cũng là một điểm mới, nổi bật của đồng thoại những năm đầu thế kỉ XXI này. Kiểu truyện này, như đã biết, dễ gây được hứng thú “nhập cuộc” đối với trẻ em, những người vốn hiếu động, thích được dấn thân vào các thử thách. Khác Tô Hoài, nhà văn hôm nay không mô tả nhân vật đi tìm lý tưởng, hô hào cổ vũ cho một xã hội lí tưởng cụ thể nào đó. Phiêu lưu trong cảm hứng chung là hành trình khám phá thế giới, khám phá ý nghĩa cuộc sống xuất phát từ những thôi thúc bên trong của lứa tuổi. Trước đây, nhất là vào những năm 60, 70 của thế kỉ XX, do yêu cầu chung, truyện đồng thoại của ta rất chú trọng tới việc đưa hiện thực đời sống vào trong tác phẩm. Những người viết đồng thoại như Tô Hoài, Võ Quảng, Trần Hoài Dương… đều rất trăn trở trong nhiệm vụ này. Phương pháp đưa hiện thực trực tiếp vào tác phẩm ít nhiều đã lấn lướt, làm lu mờ đi giá trị ẩn dụ của các hình tượng đồng thoại, khiến cho không ít tác phẩm không còn thú vị như trước nữa. Truyện đồng thoại Tô Hoài sau 1945 là một ví dụ điển hình. Có thể nhận thấy, các tác giả đồng thoại hôm nay đã tìm cách xử lí vấn đề một cách mềm mại, khéo léo hơn, do đó, vẫn đưa được nhiều mảng hiện thực sáng tối, hạnh phúc, bi kịch… vào tác phẩm. Đặc biệt, nhờ chú ý đến cuộc sống tuổi thơ nên đồng thoại thế kỉ XXI đã thực sự là thế giới nghệ thuật của các em, không phải là vỏ bọc cho những câu chuyện, những vấn đề của người lớn. Truyện đồng thoại Việt Nam hiện đại khởi đi với Dế Mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài, năm 1941. Tính đến nay, lịch sử thể loại đã có gần ¾ thế kỉ phát triển, đã đi qua nhiều giai đoạn lịch khác nhau, thăng trầm vận động. Tuy vậy, đây vẫn là thể loại có vị trí và thành tựu quan trọng hơn cả trong văn học thiếu nhi Việt Nam. Với khả năng “lúc nào cũng thích hợp”(Tô Hoài), truyện đồng thoại đã chứng tỏ sức mạnh, khả năng hồi sinh vào những năm đầu thế kỉ XXI. Trong những năm tới, đồng thoại Việt sẽ còn gặt hái thêm nhiều hoa thơm trái ngọt mới… Lê Nhật Ký (Đại học Quy Nhơn)
Dưới dạng trao đổi kinh nghiệm, Tô Hoài đã đôi lần phát biểu ý kiến về truyện đồng thoại. Theo ông, truyện đồng thoại là một thể loại văn học dành cho thiếu nhi, lấy loài vật làm nhân vật, lúc nào cũng thích hợp. Nhân vật trong truyện đồng thoại được nhân cách hóa trên cơ sở đảm bảo “không thoát li sinh hoạt thật có của loài vật”, đồng thời không xa rời cái nhìn theo thói quen của các em”. Hình thức nhân hóa loài vật này đem lại cho thể loại khả năng diễn tả những vấn đề của đời sống một cách hình tượng, ý vị. Trong Tôi viết đồng thoại:Dế Mèn, Chim Gáy, Bồ Nông, nhà văn cho biết lí do ông xây dựng hình ảnh chim gáy chưa đến tháng mười đã rủ nhau đi ăn đàn. Ông muốn qua hiện tượng “đổi tính” đó để “ngầm” nói lên công cuộc làm ăn mới đã tạo nên những thay đổi kì diệu cho nông thôn và đồng ruộng ở miền Bắc những năm 60 của thế kỉ trước. Như vậy, chủ đề của Đàn chim gáy là thành tựu cuộc sống mới đã được Tô Hoài diễn tả qua hình thức đồng thoại, kể chuyện loài vật mà nói chuyện con người. Ông bảo, đó là cách biểu hiện có việc, có ý nghĩ, phù hợp với khả năng tiếp nhận của các em. Khi phát biểu điều này, Tô Hoài đã có sự quan sát, nắm bắt kĩ đặc điểm tâm lí của lớp bạn đọc nhỏ tuổi. Theo ông, lứa tuổi các em là lứa tuổi “ngồi trò chuyện với cái gốc cây, với con mèo, với nhành hoa cũng thích như với bạn. Thực ra, theo Tô Hoài, hình thức nhân hóa sự vật trong nghệ thuật có tác dụng rộng rãi tới nhiều đối tượng khác nhau. Vấn đề là, nghệ thuật nhân hóa phải đạt tới trình độ điêu luyện thì chuyện cái ghế biết cười, con mèo thủ thỉ trò chuyện, ông trăng biết nói... đều gợi được những điều nghĩ ngợi, đúng đắn sâu xa cho bất cứ người đọc nào. Trong suy nghĩ của Tô Hoài, truyện đồng thoại là một thể loại dành cho các em. Nhưng điều đó không có nghĩa là truyện đồng thoại xa lạ với bạn đọc người lớn. Mỗi lứa tuổi đều tìm thấy ở truyện đồng thoại những lợi ích tinh thần khác nhau. Chúng tôi nghĩ, quan điểm này của Tô Hoài là có cơ sở, cho thấy nhà văn đã thấu được cái lẽ tồn tại của văn chương. Rõ ràng, không thể tạo ra những giới hạn nhằm buộc tác phẩm xoay vần trong không gian đã định sẵn. Những tác phẩm hay bao giờ cũng là tài sản chung của mọi người. Bạn đang xem: Truyện đồng thoại là gì Xem thêm: Xem thêm: Tăng Phúc Là Ai ? Chàng Ca Sĩ 9X Chuyên Các Dòng Nhạc Ballad Nó vượt lên những giới hạn để vươn tới tầm giá trị phổ quát. Tô Hoài coi trọng điều này nên trong quá trình sáng tác truyện đồng thoại, ông đã tìm cách xử lí tốt vấn đề độc giả của thể loại. Ông viết như sau: “Đã đành, tác phẩm hay sẽ trở nên tác phẩm của chung mọi người. Nhưng viết cho các em, trước nhất, phải là của các em”. Trên tinh thần đó, ông chỉ ra những yêu cầu mà một tác phẩm dành cho các em phải đạt được, đó là: nội dung giáo dục, nghệ thuật đẹp và vui, giàu tưởng tượng, giàu chất thơ... Tô Hoài kết luận: “Như vậy, đồng thoại là loại truyện có cơ hội tung hoành nhất về những mặt đó” (Tôi viết đồng thoại: Dế Mèn, Chim Gáy, Bồ Nông). Trong các bài viết của mình, Tô Hoài đã nói rõ quan điểm viết truyện đồng thoại của ông. Tựu trung có ba khía cạnh cần lưu ý: - Thứ nhất, về nhân vật, ông “không thích viết cái ghế, cái bàn, đôi giày, những vật vô tri thành đồng thoại. Đối tượng yêu thích nhất của Tô Hoài là các con vật gần gũi trong cuộc sống thường ngày. Khi viết về chúng, ông luôn “dựa vào tâm lí thiếu nhi và sự quen biết thông thường xưa nay của các em về loài vật”, “không đặt một con vật cốt để bạn đọc hiểu ngầm đấy là một con người, một giai cấp. Khi miêu tả, ông cố gắng để cho nhân vật hiện ra một cách tự nhiên và dựa vào thói quen, phong tục để nhận xét chúng; - Thứ hai, về nội dung, ông không viết vì bâng quơ, vì muốn làm cho lạ, mà “muốn đem vào đồng thoại một nội dung xã hội”. Ý kiến này cho thấy, ngay từ khi mới vào nghề, ngòi bút Tô Hoài đã có thiên hướng đi về phía hiện thực, xa lạ với lối viết truyện viễn vông giang hồ kì hiệp vốn khá phổ biến thời bấy giờ. Vấn đề là, ông quan tâm tới hiện thực nào trong biển đời mênh mông này? Câu trả lời có trong Tự truyện: “Đời sống xã hội trong xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả trong những sáng tác của tôi. Ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết những sự xảy ra trong nhà, trong làng quanh mình”. Sau này, khi đã trở thành nhà văn cách mạng, ngòi bút Tô Hoài càng có điều kiện hơn để gắn bó với hiện thực đời sống. Từ những gì đã trải nghiệm, đã thân thiết, ông tái hiện lên trang viết của mình; hình thức dù có vẻ hoang đường (như đồng thoại) vẫn lấp lánh hình bóng cuộc đời với tất cả mọi buồn vui, được mất của cõi nhân sinh; - Thứ ba, trước năm 1945, Tô Hoài sử dụng hình thức đồng thoại là nhằm tránh lưỡi kéo kiểm duyệt của chế độ đương thời, bóng gió gửi gắm những tư tưởng yêu nước, yêu tự do... Về điều này, ông viết như sau: “Trước kia, vì đế quốc cấm những sáng tác có những tư tưởng yêu nước – tư tưởng chính trị, chống đối, cho nên có truyện tôi viết lối bóng gió, ám chỉ, như truyện Đám cưới chuột...”. Tóm lại, quan niệm về truyện đồng thoại nằm trong hệ thống quan niệm văn chương của Tô Hoài. Từ những gì đã mô tả, chúng ta nhận thấy, Tô Hoài có một quan niệm sáng rõ, đồng thời biết chủ động một lối viết mà qua đó, vừa đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc nhỏ tuổi, vừa vươn tới được một đối tượng công chúng rộng rãi, tạo cho tác phẩm khả năng trường tồn trong đời sống văn hóa tinh thần cộng đồng. Giá trị của quan niệm, suy cho cùng chính là đã góp phần tạo nên những tác phẩm hay làm rạng danh tên tuổi Tô Hoài, làm say mê độc giả xưa nay... |