Đổi mới kinh tế là gì

Đổi mới kinh tế là gì
Người dân Litva tụ tập ở thủ đô Vilnius để đòi tách khỏi Liên Xô (Nguồn -baobinhdinh.vn)

Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình diện quốc tế

Quy luật vận động của mọi quốc gia là phải luôn cải cách để phát triển. Các nước xã hội chủ nghĩa cũng nằm trong sự vận động tất yếu đó. Công cuộc cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đòi hỏi tất yếu trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự tự nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội nhằm khắc phục những sai lầm, hạn chế đã mắc phải, tìm con đường phát triển thích hợp với bối cảnh của thời đại.

Vào đầu những năm 1980, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bắt đầu bộc lộ sự lạc hậu. Trong xây dựng kinh tế, các quốc gia này chỉ duy trì quan hệ khép kín trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (Khối SEV). Điều này đi ngược xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mắc nhiều sai lầm. Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa mà bỏ qua sự khác nhau về lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa cũng như điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước.

Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng. Thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có Việt Nam phải tiến hành cải cách, đổi mới đất nước toàn diện.

Đổi mới kinh tế là gì
Sự sụp đổ CNXH của các nước Đông Âu (Nguồn-nghiencuulichsu.com)

Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế và sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều Đảng Cộng sản cầm quyền đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước như Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1978, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Thực tiễn cho thấy Trung Quốc, Việt Nam, Cuba từng bước vượt qua khủng hoảng, đạt được nhiều thành tựu đáng kể về chính trị, xã hội, kinh tế sau thời gian cải cách, đổi mới đất nước. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân nên kết quả ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa không hoàn toàn giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một số Đảng Cộng sản không tìm ra lối đi thích hợp, dao động hoặc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc nên công cuộc cải tổ, đổi mới đất nước lâm vào bế tắc và thất bại. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20 là minh chứng sinh động cho nhận định này.

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước

Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại. Quá trình này đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng.

Đổi mới kinh tế là gì
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam 1986 (Nguồn-daihoi13.dangcongsan.vn)

Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979) được đánh giá là mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ những quan điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá như Chỉ thị 357 của Chính phủ cho phép nông dân được nuôi và mua bán trâu bò; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”…

Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) đã nhận định nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả năng bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập trung dân chủ. Tiếp đến tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay là phải kiên quyết nhanh chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc cải cách kinh tế đất nước. Hội nghị tập trung bàn và quyết định việc cải cách một bước giá
cả, tiền lương, tài chính và tiền tệ để bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung ương 8 đã đáp ứng nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước. Những chuyển biến mới, tích cực của đất nước trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương dứt khoát cải cách toàn diện, sâu sắc nền kinh tế đất nước của Đảng.

Đến cuối năm 1985, đầu năm 1986, do ảnh hưởng từ những biến động chính trị của thế giới, đặc biệt sự khủng hoảng trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, tình hình Việt Nam hết sức nguy cấp. Trước hoàn cảnh đó, trong Nghị quyết số 31/NQ/TW ban hành ngày 24/2/1986, Bộ Chính trị nhấn mạnh cần có những biện pháp xử lý kiên quyết, đúng đắn, nhanh chóng xoay chuyển tình thế, đưa hoạt động kinh tế - xã hội đất nước theo đúng hướng mà các Nghị quyết 6, 7, 8 Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra. Tiếp đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam. Đại hội khẳng định quan điểm đổi mới quản lý kinh tế như sau: (i) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, chấp nhận kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang nền sản xuất hàng hóa. (ii) Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. (iii) Cả nước là một thị trường thống nhất, có nhiều thành phần kinh tế tham gia; Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá, thay vào đó điều tiết giá bằng các biện pháp, công cụ kinh tế.

Sau năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng ta tiếp tục diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung, cải tiến trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm của thực tiễn. Đảng ta từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ, dần hình thành cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành công to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước sau gần 40 năm đã chứng minh định hướng, chủ trương và phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn. Mặt khác, những thành công đó đã cho thấy khả năng lãnh đạo đất nước xoay chuyển tình thế, kịp thời thích nghi với bối cảnh chính trị - kinh tế mới của quốc tế nhưng vẫn giữ được những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nguyễn Hồ Phong

Tin liên quan

QPTD -Thứ Ba, 27/07/2021, 17:05 (GMT+7)

“Đổi mới kinh tế đến mức không thể không thay đổi chế độ chính trị” - luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch

Công cuộc đổi mới ở nước ta thực chất là một cuộc cách mạng mới, sâu sắc, toàn diện; trong đó, đồng thời với đổi mới kinh tế là đổi mới chính trị với bước đi, hình thức phù hợp và đã đem lại hiệu quả thiết thực. Nhưng, để thực hiện mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực cơ hội, thù địch, họ cố tình không thừa nhận và ra sức xuyên tạc về cái gọi là “đổi mới kinh tế đến mức không thể không thay đổi chế độ chính trị”. Luận điệu đó cần được nhận diện rõ và kiên quyết đấu tranh.

Để thực hiện âm mưu chống phá, các thế lực cơ hội, thù địch tập trung vào những vấn đề mang tính ý thức hệ, điển hình là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Họ viện dẫn lý luận Mác - Lênin: quan hệ sản xuất chịu sự chi phối, quyết định của lực lượng sản xuất, khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu phải đổi mới cho phù hợp. Theo đó, sau 35 năm đổi mới kinh tế, quan hệ sản xuất tại Việt Nam đã thay đổi tới mức “không thể không thay đổi chế độ chính trị”; vì vậy, cần thay đổi chế độ chính trị hiện nay bằng một chế độ chính trị khác. Cho nên, họ đã xuyên tạc về chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bằng luận điệu: đã chấp nhận kinh tế thị trường thì phải vận hành và tuân thủ theo quy luật của thị trường, nhưng kinh tế thị trường Việt Nam lại bị kìm kẹp bởi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mặt khác, kiến trúc thượng tầng do độc đảng nên Nhà nước can thiệp quá sâu vào kinh tế; thực chất kinh tế Việt Nam đã chuyển sang theo mô hình chủ nghĩa tư bản, nhưng không dám thừa nhận, rằng Đảng Cộng sản Việt Nam muốn duy trì sự thống trị của mình theo một luận thuyết xã hội chủ nghĩa đã lỗi thời, lạc hậu nên buộc phải lấp liếm, che đậy bằng chụp cho kinh tế thị trường cái mũ “định hướng xã hội chủ nghĩa”, v.v. Họ “lớn tiếng” rằng: ngày nay người lao động được đóng cổ phần trong các doanh nghiệp, nên đã là người làm chủ, không còn bị bóc lột, được quan tâm nhiều đến lợi ích; chủ nghĩa tư bản đã có nhiều điều chỉnh, do đó không còn mâu thuẫn đối kháng giai cấp, rằng chỉ có dưới chế độ tư bản, nền kinh tế Việt Nam mới thực sự là nền kinh tế thị trường, mới được phát huy hết mọi tiềm năng phát triển đất nước vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ những lập luận đó, họ khẳng định, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã lỗi thời; Đảng Cộng sản với tư cách là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp cũng lỗi thời; vì vậy, cần phải thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam cho phù hợp sự đổi mới và theo kịp sự phát triển của kinh tế, v.v. Các luận điểm đó đều là phi lý, không có cơ sở thực tiễn khoa học.

Như chúng ta đã biết, chính trị có mối quan hệ biện chứng sâu sắc với kinh tế, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Và, chính trị cũng mang tính độc lập tương đối, có vai trò tác động trở lại tích cực đối với kinh tế. Mối quan hệ đó đã cho thấy: đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải bảo đảm tính hài hòa để kinh tế và chính trị cùng phát triển, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận phát triển chung của nhân loại. Vận dụng lý luận khách quan đó, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định: tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Đảng chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, chúng ta đã đổi mới mạnh mẽ tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong toàn bộ quá trình hơn 35 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới của Đảng, đều tiến hành đồng thời giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, bằng những bước đi phù hợp với thực tiễn. Đến nay, công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”1.

Về đổi mới kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đánh giá: “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”2. Bộ máy Chính phủ thực hiện tốt vai trò kiến tạo, nỗ lực tạo môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi để tập trung, chuyển hóa nguồn lực từ tất cả thành phần kinh tế vào phát triển kinh tế - xã hội. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước (năm 1986) đến nay, chúng ta đạt được những thành tựu rất quan trọng. Chỉ sau 05 năm đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sau 10 năm nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong 10 năm gần đây, GDP bình quân đầu người tăng gấp hơn hai lần, từ 1.331 USD năm 2010 lên 2.779 USD năm 2020. Xếp hạng toàn cầu về chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Đặc biệt, kinh tế đối ngoại Việt Nam được mở rộng và phát triển. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của Việt Nam; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Hiện đã có 136 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá Việt Nam nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Tính đến năm 2020, Việt Nam đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới và được truyền thông quốc tế ca ngợi, như: “mảnh đất tiềm năng” (Forbes), “bình minh đang lên” (báo Nga), “ngôi sao sáng” (Asia Times), “phép màu châu Á” (New York Times), “con hổ châu Á” (Nikkei Asia), v.v.

Về đổi mới chính trị, Đảng đã nghiên cứu và xây dựng một hệ thống lý luận chính trị khá hoàn chỉnh; trong đó, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, sáng rõ hơn và từng bước hiện thực hóa; nền tảng tư tưởng của Đảng tiếp tục được củng cố, bổ sung và phát triển, là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương một cách đúng đắn. Công tác “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, đổi mới tinh, gọn, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”3. Các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Giai đoạn 2011 - 2020, cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực4. Cơ chế hoạt động của Chính phủ cũng có sự đổi mới quan trọng, chủ yếu quản lý ở tầm vĩ mô thông qua chính sách, kế hoạch, pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả.

Cùng với đó, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Sự phối hợp đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng hộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững và tăng cường; phát huy tốt tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Quốc hội có nhiều đổi mới mạnh mẽ, nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả hoạt động. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới và có bước phát triển. Văn hóa, xã hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện một bước quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực, rõ nét. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, v.v.

Điều đó đã minh chứng, luận điệu của các thế lực cơ hội, thù địch về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta là hoàn toàn xuyên tạc sự thật. Cái mà họ cho là “đổi mới kinh tế đến mức không thể không thay đổi chế độ chính trị” thực chất chỉ là biện pháp để thực hiện âm mưu thâm độc của chúng là làm cho kinh tế nước ta không phát triển, đất nước không ổn định, nhân dân mất lòng tin với Đảng, với chế độ, làm cơ sở để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thực tiễn trên cũng khẳng định: Đổi mới kinh tế không thể tiến hành một cách tùy tiện, vô nguyên tắc; đổi mới chính trị phải thận trọng, chắc chắn, không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ; mở rộng dân chủ không giới hạn, không mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới. Đổi mới chính trị không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của chế độ chính trị - xã hội, không phải là thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, mà là để phát huy vai trò tính tích cực của chính trị trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới phải vì mục tiêu xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân, đảm bảo cho họ ngày càng được thụ hưởng nhiều hơn. Đổi mới chính trị là để chính trị phù hợp, đồng bộ với kinh tế, là để phát huy vai trò tích cực, năng động của nó trong phát triển kinh tế nói riêng, phát triển tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung. Bởi vậy, chúng ta cần phải tỉnh táo trước quan điểm “Đổi mới kinh tế đến mức không thể không thay đổi chế độ chính trị”; bởi, đó chỉ là những phát ngôn hồ đồ, thiếu tính khoa học, không đúng với tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Đại tá, TS. PHẠM QUANG THANH vàThiếu tá, Ths. NGUYỄN TUẤN ĐẠT

Trường sĩ quan Chính trị
­­­_____________

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 104.

2 - Sđd, tr. 59.

3 - Sđd, tr. 71.

4 - Giảm 03 đầu mối trực thuộc Trung ương, 61 đầu mối trực thuộc cấp tỉnh, 485 đầu mối trực thuộc cấp huyện, hơn 4.100 đơn vị sự nghiệp công lập, 97.900 biên chế.