Có thể hiểu nhân vật khách là ai

Cùng Top lời giải trả lời chi tiết, chính xác câu hỏi: “Nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng là ai”và đọc thêm phần kiến thức tham khảo giúp các bạn học sinh ôn tập và tích lũy kiến thức bộ môn Ngữ Văn.

Câu hỏi: Nhân vật khách trong Phú sông Bạch Đằng là ai?

Trả lời:

Nhân vật"khách" cũnglàhiện thân của Trương Hán Siêu, trước tình hình đất nước đang trên đà suy vong, khi trở về thăm lạisông Bạch Đằng, bỗng chốc nảy sinh nhiều cảm xúc, mà phần nhiều đều xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, nỗi lo cho vận mệnh của dân tộc của một nguyên lão 4 triều.

Tiếp theo đây, hãy cùng Top lời giải đi tìm hiểu nhiều và khám phá nhiều hơn những kiến thức thú vị về nhân vật “Khách” trong Phú sông Bạch Đằng nhé!

1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.

- Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ - khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.

- Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

- Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc - Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.

- Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt - Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

- Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.

2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.

- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu, hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.

- Tâm trạng của khách:

+ Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng

+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

+ Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.

→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng

→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử dân tộc

3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.

- Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.

- Khách đồng tình với các vị bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.

4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

- Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình

- Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử

- Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ

- Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc

→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.

5. Một số câu hỏi trắc nghiệm

Câu 1:Văn bảnPhú sông Bạch Đằngđược Trương Hán Siêu sáng tác khi nào ?

A. Khi nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái.

B. Khi nhà Trần đang cường thịnh.

C. Khi nhà Trần vừa đạnh thắng quân Nguyên-Mông.

D. Khi nhà Trần vừa củng cố lại chính quyền.

Câu 2:Dòng nàokhông đúngkhi nói về giá trị nội dung của bàiPhú sông Bạch Đằng?

A. Thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

B. Ca ngơi truyền thống anh hùng, nhân nghĩa của đân tộc.

C. Thể hiện khát vọng đất nước thái bình, thịnh trị.

D. Chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp.

Câu 3:Tâm trạng nhân vật “khách” trong bàiPhú sông Bạch Đằnglà gì?

A. Say mê vẻ đẹp thiên nhiên

B. Ngậm ngùi, nuối tiếc

C. Tự hào, sảng khoái

D. Vừa vui, tự hào vừa buồn đau

Câu 4:CâuAnh minh hai vị thánh quânđể nuối tiếc chỉ ai?

A. Ngô Quyền, Trần Nhân Tông

B. Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo

C. Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông

D. Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo

Câu 5:BàiPhú sông Bạch Đằngcó nói tới yếu tố nào?

A. Thiên thời, địa lợi

B. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa

C. Thiên thời, nhân hòa

D. Địa lợi, nhân hòa

Câu 6:Nhận định nào nói chính xác nhất bút pháp và dụng ý của việc nhắc đến các danh thắng nổi tiếng của Trung Quốc trong đoạn đầu bài phú?

A. Dùng lối tả thực để ca ngợi cảnh đẹp Trung Hoa.

B. Dùng lối tả thực để ca ngợi cảnh đẹp Việt Nam.

C. Dùng lối tả thực để so sánh cảnh đẹp Trung Hoa với cảnh đẹp Việt Nam.

D. Dùng tưởng tượng, biểu tượng để nói về thú ngao du sơn thủy.

Câu 7:Đặc sắc nghệ thuật của bàiPhú sông Bạch Đằnglà gì?

A. Bố cục chặt chẽ, cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn.

B. Lời văn linh hoạt, vừa trang trọng vừa gợi cảm.

C. Hình tượng kì vĩ, bút pháp ước lệ tượng trưng.

D. Tất cả đều đúng.

Trong nền văn học Việt Nam trung đại, ta không khó bắt gặp những hình tượng anh hùng đẹp đẽ. Đó là bài “Hịch tướng sĩ” xây dựng hình tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, là vị vua Lí Công Uẩn luôn hướng đến tương lai đất nước trong tác phẩm “Chiếu dời đô”. Và ta cũng không thể không kể đến tinh thần hão sảng của bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo. Nhưng sẽ không trọn vẹn nếu không nhắc đến tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu, với việc xây dựng hình tượng nhân vật khách nhiều tâm tư hoài niệm. Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng sẽ thấy rõ tâm tình mà tác giả gửi gắm cũng như nghệ thuật văn học độc đáo được Trương Hán Siêu sử dụng.

Nhân vật khách ở đây là một nhân vật hư cấu. Thông qua nhân vật này, tác giả thể hiện cái khí thế, cái tráng trí bón phương của người khách hay chính tác giả và gợi lại một thời oanh liệt của dân tộc với những trận đánh toàn thắng trên sông Bạch Đằng. Vì vậy, Ta có thể hiểu, nhân vật khách là hiểu hiện cho cái tôi tác giả, là sự hóa thân của người thi sĩ và cũng là một đấng anh hùng từng chinh chiến bốn phương nay mang nặng nỗi niềm về đất nước.

Thân bài

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng chi tiết

Nhân vật khách xuất hiện ở ngay đầu tác phẩm, với tâm thế của một tao nhân, một du sĩ và cũng là một nghệ sĩ phóng khoáng, mang theo cái tráng trí bốn phương của một anh hùng.

Khách có kẻ:

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Bèn giữa dòng chừ buông chèo,

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy, trong đời thơ trên Trương Hán Siêu sử dụng các điển tích, điển cố, các hình ảnh có tình ước lệ và cường điệu. Nào giường buồm giong gió, nào lướt bể chơi trăng. Và có thể, nhân vật khách là người thích thú ngao, thể hiện đây là một người có tâm hồn khoáng đạt, lãng mạn, phiêu du. Kẻ khách trong đoạn thơ như đang giương buồm vi vu trời bể với gió, với trăng qua bao tháng ngày. Từ láy “chơi vơi”, “mải miết” đã nhấn mạnh sự say mê của nhân vật khách đối với giấc mộng hải hồ. Đồng thời, ở đây Trương Hán Siêu sử dụng phép liệt kê, đưa kẻ khách đến với những cảnh đẹp nổi tiếng Trung Quốc và đoạn cuối chuyến hành trình là trở về trên sông Bạch Đằng.

Những địa danh hùng vĩ nơi Phương Bắc, có thể kẻ khách đã từng ghé thăm, nhưng có thể chỉ biết qua sách vở, nhưng cho thấy vốn hiểu biết rộng lớn của bậc nho sĩ, nghệ sĩ mang tâm hồn lãng du. Người du sĩ đi để khám phá những vùng đất mới lạ và cũng để mở mang tri thức cho mình. Vì vậy Trương Hán Siêu viết “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”. Thật vậy, dù đi đến nhiều nơi, nhưng cái tráng trí bốn phương, cái sở thích ngao du vẫn còn tha thiết lắm. Kẻ khách mang hoài bão lớn được ngao du, thưởng ngoạn bốn phương nên tâm hồn luôn khoáng đạt, bay bổng. Bởi thế nhân vật khách muốn học Tử Trường cái thú tiêu diêu. Sự học ấy là quan sát thắng cảnh, vừa nghiên cứu lịch sử, trau dồi vốn hiểu biết và cũng là cách để trút bầu tâm sự.

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh: ba thu.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy, người khách dong buồm khắp chốn núi non sông nước, lướt qua từng địa danh và cuối cùng đến sông Bạch Đằng. Lúc này, cảnh tượng hiện ra trước mắt nhân vật thật ngỡ ngàng làm sao, đó là khung cảnh đẹp không tả xiết của mùa thu. Bằng bút pháp miêu tả lãng mạn, Trương Hán Siêu tả mà như vẽ một bức tranh thủy mặc về dòng Bạch Đằng độ mùa thu chín nhất.

Miêu tả sông Bạch Đằng với “bát ngát sóng kình” cho thấy sông Bằng Đằng ngàn năm vẫn cuồn cuộn sóng. Còn cái thướt tha của những chiếc thuyền nối đuôi nhau như đuôi trĩ một màu cùng với cảnh trời, sắc nước đã tô đậm vẻ thơ mộng, nên thơ của dòng sông lịch sử. Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng có thể khẳng định rằng, phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên mê đắm, đôi mắt nghệ sĩ và cảm quan nghệ thuật, mới họa ra một bức tranh thu đẹp đến vậy. Cảm xúc trước thiên nhiên hùng vĩ mà không kém phần thơ mộng cứ thể reo vui, ta càng cảm nhận thêm được sự phóng khoáng, lãng mạn ở nhân vật kẻ khách, một nho sĩ uyên bác, biết rộng hiểu sâu.

Từ những xúc cảm của bậc tao nhân kẻ khách, ta không khỏi nhớ tới hình dáng của nhà nho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong đoạn thơ:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Và ta cũng như thấy cả khí phách, dáng hình của Cao Bá Quát trong “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”:

“Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng

Phía nam núi Nam, sóng muôn đợt”

Nhưng khác với hai vị tao nhân trên, ở đây Trương Hán Siêu tìm đến thiên nhiên là để thỏa lòng đam mê ngao du thiên hạ và cũng để tìm hiểu nhiều hơn về núi non sông bể dân tộc mình. Và một ý nghĩa khác không thể không nhắc tới khi phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng , là qua việc ngắm cảnh, nhân vật thể hiện niềm hoài nhớ lẫn tự hào về một thời lịch sử hào hùng của cha ông ta. Vì vậy, kẻ khách không chỉ hiện lên là một lãng khách yêu thú tiêu dao mà còn một trí thức luôn nặng lòng với dân tộc.

Trước đó, khi nhìn thấy phong cảnh ba thu, kẻ khách thấy vui vẻ trước thiên nhiên tươi đẹp. Nhưng lúc này đây, khi đối diện, nhìn thẳng vào dòng sông Bạch Đằng, cảm xúc của nhân vật là nỗi buồn hoài niệm, bởi những chiến tích năm xưa nay đã bị mai một, bào mòn:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng , ta thấy trước đó khi miêu tả về vẻ đẹp của mùa thu trên thông, Trương Hán Siêu đã dùng bút pháp miêu tả lãng mạn. Nhưng hiện tại, bút pháp tả thực được sử dụng đã gợi lên trước mắt người đọc một khung cảnh đối lập. Kẻ khách nhìn vào dòng sông, nơi từng là một thời oanh liệt mà nay thật ảm đạm, thật thê lương. Hình ảnh bờ lau, bên lách rồi các từ láy như “đìu hiu”, “san sát” đã bao trùm lên không gian một màu xám của nỗi buồn. Nhớ năm xưa trên dòng sông này, khí thế hào hùng biết bao, nhưng nay lòng sông chỉ còn giáo gãy, rồi “gò xương khô”. Nên không còn vẻ vui tươi như trước, quan sát khung cảnh này, tâm trạng của kẻ khách bồng nặng trĩu, u buồn. Ta như thấy nhân vật khách đang buồn mà lặng lẽ cúi đầu với bao xót xa, bao ngậm ngùi và hoài tiếc. Thời gian trôi đi, vạn vật dần đổi thay, làm cho những dấu tích oai hình năm xưa của dân tộc nay chỉ còn không khí đìu hiu, u buồn. Mà cũng chính trên dòng sông này, Nguyễn Trãi nhiều năm sau lúc đi qua cũng mang cảm giác ngậm ngùi ấy, như ông viết trong tác phẩm “Cửa biển Bạch Đằng”:

Việc trước quay đầu ôi đã vắng

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng

Lúc này đây, sau khi phân phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng qua các đoạn thơ, ta thấy rõ chuyển biến tâm trạng của người thi nhân. Đó là sau bao nhiêu cảm thương, kẻ khách thể hiện cái ước vọng được trở lại những thời khắc oai hùng một thưở.

Lúc này bài thơ có sự xuất hiện của hình ảnh các bị bô lão, những người đã từng là người trong cuộc, đã chiến đấu anh dũng và giờ đây hoài niệm mà tái hiện lại quá khứ hào hùng ấy, khiến kẻ khách không khỏi tự hào, kiêu hãnh.

Sông Bạch Đằng được ca ngợi nhiều trong văn thơ, lịch sử và được xem là dòng sông huyền thoại. Bởi năm xưa, hai trận đánh trên dòng trường giang này của hai vị Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa đã khiến kẻ thù thất bại không xót lại chút hiển vinh.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy, trong đoạn thơ các bô lão kể chuyện xưa, không có sự tham gia của nhân vật khách. Tuy vậy ta vẫn như thấy vị du sĩ nàng hiện diện bằng cảm xúc. Bởi lời kể với đậm chất ước lệ, cường điệu cùng cảm hứng vũ trụ đã tái hiện vô cùng chân thực những trận đánh hào hùng của dân tộc ta những năm xưa.

Đến đây, sau khi nghe các bô lão kể chuyện, tâm trạng buồn thương của kẻ khách trước đó đã tan biến. Lúc này chỉ còn là sự kiêu hãnh, thán phục và tự hào về một quá khứ hào hùng và truyền thống yêu nước ngàn năm vẫn còn của dân tộc, nhân dân ta.

Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta thấy người mặc khách lắng nghe và một mực đồng tình với những điều các bô lão kể. Bởi kẻ khách là nho sĩ am hiểu kẽ đời, từng chứng kiến lịch sử nên hiểu rằng, để thành công không chỉ cần có thiên thời, địa lợi, mà nhất thiết cần đến nhân hòa. Đến đây kẻ khách một lòng ngợi ca những người anh hùng, nhưng bậc thánh đế minh vương đã mang về những chiến công hiển hách, thu phục lòng dân, giữ yên bình cho đất nước. Và chiến công ấy được ghi tạc mãi mãi vào lichn sử dân tộc. Những lời cuối bài phú, giọng thơ như âm vang, nhịp đều cùng với sóng sông Bạch Đằng, cho thấy niềm tin vui của kẻ khách:

Anh minh hai vị thánh quân

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh

Giặc tan muôn thuở thăng bình

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao

Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng và cũng là nỗi lòng người thi nhân. Nỗi lòng nhớ về quá khứ và niềm cảm khái cùng những ưu tư về thời thế bấy giờ. Và với những nỗi hoài niềm, nhân vật khách đã khơi dậy giá trị lịch sử rất đỗi thiêng của dân tộc ta. Qua đó đề cao và trân trọng nhưng người đã chiến đấu, đã ngã xuống vì dân, vì nước.

Kết luận khi phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng

Có thể thấy, trong bài “Phú sông Bạch Đằng” Trương Hán Siêu đã sử dụng thành công bút pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học trung đại. Đó là tả cảnh và lối kể mang tính ước lệ, đó là điển tích, điển cố. Phân tích nhân vật khách trong bài phú sông bạch đằng ta cũng thấy rõ kẻ khách mang những phẩm chất của chính Trương Hán Siêu. Bằng cách tô đậm cái tôi lãng du, nghệ sĩ của kẻ khác, Trương Hán siêu đã truyền tải thành công giá trị tư tưởng của tác phẩm về lịch sử hào hùng cùng truyền thống yêu nước, chiến đấu anh dũng của dân tộc.