Chén tạc chén thù nghĩa là gì

Chén tạc chén thù nghĩa là gì

Hướng dẫn

Trong cuộc rượu đãi khách, trước tiên chủ nhà thường rót chén mời khách uống. Chén rượu từ tay người chủ rót để mời khách ấy gọi là chén thù. Uống xong, khách lại tự tay rót chén rượu nâng lên mời chủ để đáp lại tấm lòng thân tình, nồng thắm của người chủ dành cho mình. Chén rượu do khách rót nâng lên mời chủ ấy là chén tạc. Dân gian đã chớp lấy một chi tiết nhỏ trong cuộc tạc thù giao tiếp nhau để biểu trưng cho toàn cuộc vui với không khí thân mật, cởi mở giữa chủ và khách, giữa những người dự tiệc với nhau.

“Vợ chồng chén tạc chén thù

Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi”

(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Ý nghĩa của thành ngữ chén tạc chén thù thường chỉ hạn hẹp ở sự hàm chỉ việc tiếp rượu trong cuộc ăn uống vui vẻ, thân mật. Tuy nhiên, đôi lúc người Việt cũng mở rộng giới hạn này ra. Theo đó, chén tạc chén thù được dùng để chỉ sự ăn uống nhậu nhẹt nói chung, nay người này mời, mai người kia tiếp đãi lại cho tương xứng. Và, rộng hơn thế nữa, thành ngữ chén tạc chén thù còn nói lên lối sống cánh hẩu, thích bè cánh, có đi có lại giữa những con người tham lam, vụ lợi.

Xem thêm:  Kín cổng cao tường

Điều đáng chú ý là thành ngữ chén tạc chén thù vốn là kết quả của sự tương hợp hai danh ngữ (chén tạc + chén thù) nhưng trong hoạt động ngôn ngữ thì thành ngữ này lại thường hành chức với tư cách là vị ngữ.

Thành ngữ chén tạc chén thù có một số biến thể khác là chén thù chén tạc. Ý nghĩa và cách sử dụng hai dạng thức này hoàn toàn đồng nhất.

Trong tiếng Việt, gần nghĩa với thành ngữ chén tạc chén thù là các thành ngữ chén chú chén anh, chén bác chén chú.

Theo Vanmauvietnam.com

Đăng nhập

Đăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích

Zalo

Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.

Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành.

Định nghĩa - Khái niệm

chén tạc chén thù có ý nghĩa là gì?

Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu chén tạc chén thù trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ chén tạc chén thù trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ chén tạc chén thù nghĩa là gì.

Mời mọc nhau ăn uống thân mật.
  • lửa gần rơm lâu ngày cũng bén là gì?
  • mũ ni che tai, việc ai cũng biết là gì?
  • trăm đồng tiền công chẳng bằng một đồng tiền thưởng là gì?
  • vỏ quýt dày có móng tay nhọn là gì?
  • phải tội cửa sau, luồn vào cửa trước là gì?
  • việc trâu trâu lo, việc bò bò liệu là gì?
  • chuột gặm chân mèo là gì?
  • trẻ vui nhà, già vui chùa là gì?

Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "chén tạc chén thù" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt

chén tạc chén thù có nghĩa là: Mời mọc nhau ăn uống thân mật.

Đây là cách dùng câu chén tạc chén thù. Thực chất, "chén tạc chén thù" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2022.

Kết luận

Hôm nay bạn đã học được thành ngữ chén tạc chén thù là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập tudienso.com để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.

Cập nhật lần cuối vào ngày 16/07/2021

Quang Nguyễn -

Trong cuộc rượu đãi khách, chủ thường rót mời khách uống trước, gọi là "chén thù" có nghĩa là chúc mừng. Uống xong, khách lại rót rượu để đáp lại tấm thịnh tình mà gia chủ đã dành cho mình, gọi là " chén tạc" có nghĩa là uống đáp lại.
 

Chén tạc chén thù nghĩa là gì


Người đàn ông lý tưởng một thời xưa kia, ngoài cầm (đàn hát), kỳ (đánh cờ); thi (làm thơ); họa (vẽ) thì phải biết cả tửu (uống rượu) mới là trọn vẹn. Bởi thế mà các cụ thời trước hãnh diện bảo nhau "nam vô tửu như kì vô phong" (Đàn ông mà không có rượu trông vô duyên như cờ không được gió phất). “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu

Ngôn bất đồng tâm, bán cú đa"


(Nghĩa là Uống rượu mà gặp người tri kỷ thì ngàn chén vẫn ít. Nói chuyện mà không hạp thì nửa câu cũng đã là nhiều)

Đã từ xưa rượu như một phương tiện giao tiếp giữa bạn bè, đặc biệt là giữa những người tri kỷ. Khi vui là cái cớ rủ nhau uống rượu, lúc buồn cũng mượn rượu giải sầu.


 

Người ta có nhiều cách uống rượu: uống nếm, uống thưởng thức, uống lấy say. Đặc biệt, uống rượu phải theo “tửu pháp” (hoặc “tửu đạo”) theo các nguyên tắc gồm:

Chén tạc chén thù nghĩa là gì
Trang chủ » Văn học Việt Nam » Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ » Chén tạc chén thù

Giải thích Thành ngữ - Tục ngữ

Đèo heo hút gió Con cà con kê Có công mài sắt, có ngày nên kim Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Chạy như cờ lông công Cạn tàu ráo máng Ăn ốc nói mò Sống để dạ chết mang theo Cà cuống chết đến đít còn cay Ba chìm bảy nổi Giàu vì bạn, sang vì vợ Chim sa cá lặn Cái tổ con chuồn chuồn Chờ được mạ, má đã sưng Bợm già mắc bẫy cò ke Bá Nha - (Chung) Tử Kỳ Bầu dục chấm mắm cáy Áo vải, cờ đào Ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng Áo gấm đi đêm Ăn cháo đái bát Chân nam đá chân chiêu Bóc ngắn cắn dài Lá lành đùm lá rách Cõng rắn cắn gà nhà Được voi đòi tiên Ăn vóc học hay Vụng chèo khéo chống Nhạt phấn phai hương Rau muống tháng 9 nhịn cho mẹ chồng Ếch ngồi đáy giếng Cú kêu cho ma ăn Ăn chay niệm phật nói lời từ bi Vàng thau lẫn lộn Năm tao bảy tuyết Chạy như cờ lông công Có nếp có tẻ Ba chìm bảy nổi Nước mắt cá sấu Tức nước vỡ bờ Thả mồi bắt bóng Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Tứ cố vô thân Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng Thua keo này bày keo khác Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa Ướt như chuột lột Cú kêu cho ma ăn Bóng chim tăm cá Như nước đổ đầu vịt Kẻ tám lạng người nửa cân Trộm cắp như rươi Một nắng hai sương Mạt cưa mướp đắng Chó mái chim mồi Máu ghen Hoạn Thư Ma ăn cỗ Nói có sách, mách có chứng Xác như vờ, xơ như nhộng Len lét như rắn mùng năm Dốt có đuôi Nợ như chúa Chổm Tham bát bỏ mâm Tấc đất cắm dùi Hàng tôm hàng cá Lời ong tiếng ve Lệnh ông không bằng cồng bà Sơn cùng thủy tận Tha phương cầu thực Sống để dạ chết mang theo Rách như tổ đỉa Rước voi giày mả tổ Ba que xỏ lá Ba hồn bảy vía - Ba hồn chín vía Cáo mượn oai hùm Đi một ngày đàng, học một sàng khôn Đồng không mông quạnh Nói nhăng nói cuội Chết đứng như Từ Hải Đười ươi giữ ống Hồn xiêu phách lạc Nói toạc móng heo Quýt làm cam chịu Vừa ăn cướp vừa la làng Trướng rủ màn che Lo bò trắng răng Nát như tương Cửa Khổng sân Trình Sức dài vai rộng Tiền trảm hậu tấu Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương Bách phát bách trúng Ướt như chuột lột Chén tạc chén thù Ông chẳng bà chuộc Kín cổng cao tường Há miệng mắc quai Oan Thị Kính Lá mặt lá trái Há miệng chờ sung Gửi trứng cho ác Giàu làm kép hẹp làm đơn Được voi đòi tiên Đa nghi như Tào Tháo Dở dở ương ương Thoả chí tang bồng Cõng rắn cắn gà nhà Niêu cơm Thạch Sanh Như vợ chồng sam Gửi trứng cho ác Chết đuối vớ được cọc Chữ như gà bới Ốc không nổi mình ốc lại mang cọc cho rêu Ông Tơ bà Nguyệt Cốc mò cò xơi Mưa không khắp Một miệng thì kín, chín miệng thì hở Mất bò mới lo làm chuồng Lừa ưa nặng Một nghề thì sống đống nghề thì chết Mèo già hóa cáo Lươn ngắn lại chê chạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm Tham thì thâm Như vợ chồng ngâu Qua cầu rút ván Xui nguyên giục bị Lấy thúng úp voi Chuồn chuồn đạp nước Hằng hà sa số Gan cóc tía Một mất mười ngờ Ruột để ngoài da Phúc họa khó lường Mũ ni che tai Giậu đổ bìm leo Chuột sa chĩnh gạo Bàn tay có ngón ngắn ngón dài Cá chậu chim lồng Đẽo cày giữa đường Yêu nên tốt, ghét nên xấu Quạ nào mà chẳng đen đầu Nằm gai nếm mật Chắp cánh liền cành Đứt đuôi con nòng nọc Gương vỡ lại lành Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo Đồ Sở Khanh Của ít lòng nhiều Nước chảy chỗ trũng Cha truyền con nối Rồng đến nhà tôm Môi hở răng lạnh Muỗi đốt chân voi Học vẹt Văn hay chữ tốt Ngang như cua Nhanh như cắt Mỗi cây mỗi hoa Của người phúc ta Tương cà gia bản Thuốc đắng dã tật Cháy nhà mới ra mặt chuột Cá không ăn muối cá ươn Cá hóa rồng Cá chuối đắm đuối vì con Lá thắm chỉ hồng Bọ ngựa chống xe Ăn lông ở lỗ Bàn tay không che nổi mặt trời Ngựa quen đường cũ Tấc đất tấc vàng Lòng vả cũng như lòng sung Hồng nhan bạc mệnh Đẹp như Tiên Dốt hay nói chữ Công cha nghĩa mẹ Giật gấu vá vai Đất có thổ công, sông có hà bá Bán lợi mua danh Bán trời không văn tự Ăn mày đánh đổ cầu ao Ăn như rồng cuốn Ăn cơm chúa, múa tối ngày Ăn chay niệm phật Cháy nhà ra mặt chuột Đục nước béo cò Già đòn non nhẽ

Trong cuộc rượu đãi khách, trước tiên chủ nhà thường rót chén mời khách uống. Chén rượu từ tay người chủ rót để mời khách ấy gọi là chén thù. Uống xong, khách lại tự tay rót chén rượu nâng lên mời chủ để đáp lại tấm lòng thân tình, nồng thắm của người chủ dành cho mình. Chén rượu do khách rót nâng lên mời chủ ấy là chén tạc. Dân gian đã chớp lấy một chi tiết nhỏ trong cuộc tạc thù giao tiếp nhau để biểu trưng cho toàn cuộc vui với không khí thân mật, cởi mở giữa chủ và khách, giữa những người dự tiệc với nhau.

“Vợ chồng chén tạc chén thù

Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi”

(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)

Ý nghĩa của thành ngữ chén tạc chén thù thường chỉ hạn hẹp ở sự hàm chỉ việc tiếp rượu trong cuộc ăn uống vui vẻ, thân mật. Tuy nhiên, đôi lúc người Việt cũng mở rộng giới hạn này ra. Theo đó, chén tạc chén thù được dùng để chỉ sự ăn uống nhậu nhẹt nói chung, nay người này mời, mai người kia tiếp đãi lại cho tương xứng. Và, rộng hơn thế nữa, thành ngữ chén tạc chén thù còn nói lên lối sống cánh hẩu, thích bè cánh, có đi có lại giữa những con người tham lam, vụ lợi.

Điều đáng chú ý là thành ngữ chén tạc chén thù vốn là kết quả của sự tương hợp hai danh ngữ (chén tạc + chén thù) nhưng trong hoạt động ngôn ngữ thì thành ngữ này lại thường hành chức với tư cách là vị ngữ.

Thành ngữ chén tạc chén thù có một số biến thể khác là chén thù chén tạc. Ý nghĩa và cách sử dụng hai dạng thức này hoàn toàn đồng nhất.

Trong tiếng Việt, gần nghĩa với thành ngữ chén tạc chén thù là các thành ngữ chén chú chén anh, chén bác chén chú.