Vì sao trong những năm gần đây nước ta phát triển mạnh hình thức khu công nghiệp tập trung

Thứ năm,28/01/2010 00:00

Vì sao trong những năm gần đây nước ta phát triển mạnh hình thức khu công nghiệp tập trung
Từ viết tắt
Vì sao trong những năm gần đây nước ta phát triển mạnh hình thức khu công nghiệp tập trung
Vì sao trong những năm gần đây nước ta phát triển mạnh hình thức khu công nghiệp tập trung
Xem với cỡ chữ

Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo ra tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất nước nhà trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá là một chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Qua 18 năm xây dựng và phát triển, các KCN, KCX ở nước ta đã thể hiện được vai trò không thể thay thế của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá: là địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước; góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất công nghiệp, tạo việc làm, tiếp thu những công nghệ sản xuất và kỹ năng quản lý tiên tiến, hình thành một hệ thống đô thị mới ở nông thôn và góp phần công nghiệp hoá nông thôn nước ta.

Kể từ khi KCX Tân Thuận với diện tích hơn 300 ha tại Thành phố Hồ Chí Minh là khu chế xuất đầu tiên được thành lập vào cuối năm 1991, đến nay chúng ta đã có 228 KCN, KCX (bao gồm 225 KCN và 03 KCX) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 58.220 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 38.075 ha, chiếm 65,5% tổng diện tích đất tự nhiên. Các KCN, KCX phân bố ở 54 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó tập trung ở 3 Vùng kinh tế trọng điểm miền Nam, miền Trung và miền Bắc với tổng số 149 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên trên 49.232 ha (chiếm trên 80,9% tổng diện tích các KCN cả nước).

Các KCN đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến hết tháng 6/2009, các KCN cả nước đã thu hút được 3.363 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký khoảng 36,760 tỷ USD và 3.416 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư hơn 232, 416 nghìn tỷ đồng. Các nhà đầu tư từ hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN, KCX ở Việt Nam, trong đó Đài Loan dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 5 tỷ USD, Nhật Bản 4,3 tỷ USD và Hàn Quốc 3,1 tỷ USD. Hiện đã có 2.412 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 2.292 dự án đầu tư trong nước tại các KCN cả nước đã đi vào sản xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt hơn 15,8 tỷ USD và 99, 415 nghìn tỷ đồng (tương ứng với 38% và 49% tổng số vốn đăng ký vào KCN). Có thể nói các KCN, KCX đã góp phần quan trọng trong việc hình thành một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài không chỉ đối với địa phương có KCN, KCX mà còn góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện có 228 dự án phát triển hạ tầng KCN trên cả nước bao gồm 35 dự án đầu tư nước ngoài và 193 dự án đầu trư trong nước với tổng vốn đầu tư hơn 2,5 tỷ USD và 85,99 nghìn tỷ đồng, trong đó có 145 KCN đã đi vào vận hành và 83 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Tại các KCN, KCX, hệ thống cơ sở nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhất là đường sá, kho bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm như các KCN Tân Tạo, Đồng An (Tp. HCM), Thăng Long (Hà Nội), Quế Võ (Bắc Ninh)… Các KCN, KCX chính là những điểm đột phá, những mô hình tối ưu về xây dựng cơ sở hạ tầng, nên có tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Các KCN, KCX đã góp phần không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế chung của cả nước và ở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Chỉ tính riêng năm 2008, các doanh nghiệp KCN đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 28, 9 tỷ USD, chiếm 30% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước; giá trị xuất khẩu đạt khoảng 14,5 tỷ USD, bằng 24,7% tổng giá trị xuất khẩu cả nước; nộp ngân sách đạt khoảng 1,3 tỷ USD. Tính đến nay, các KCN đã tạo việc làm cho trên 1,17 triệu lao động trực tiếp và khoảng 1,5 triệu lao động gián tiếp. Các KCN, KCX còn là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế, đóng góp rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam để hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. Nhiều KCN đã xây dựng các cơ sở dạy nghề như Trung tâm dạy nghề Việt Nam - Singapore, Trường Kỹ nghệ Thừa Thiên Huế, Trường cao đẳng kỹ thuật - công nghệ Biên Hoà… Các KCN, KCX ra đời đồng thời tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hoá, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các KCN, KCX thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ… góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình, cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân.

Thành tựu đem lại từ phát triển các KCN trong suốt thời gian từ năm 1991 đến nay là thực sự to lớn và không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, chính sách đầu tư phát triển KCN của chúng ta thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, trong đó nổi lên bốn vấn đề tồn tại lớn sau đây:

Thứ nhất, số lượng các KCN tăng nhanh nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao.

Khả năng thu hút đầu tư của nhiều KCN còn thấp dẫn đến không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng KCN. Việc quy hoạch xây dựng các KCN hiện nay vừa có tình hình không đáp ứng kịp thời nhu cầu thuê đất của nhà đầu tư, vừa có tình hình để đất trống trong một thời gian dài. Đáng chú ý là hiệu quả sử dụng đất tại các KCN chưa cao, tỷ lệ lấp đầy bình quan cả nước mới đạt 46%, riêng tại các KCN đã đi vào vận hành mới lấp đầy được 64% (nhiều KCN đã thành lập từ năm 1995 nhưng mới chỉ cho thuê được dưới 50% như các KCN Đài Tư, Tịnh Phong, Quảng Phú, Cái Lân...); tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư của các dự án hạ tầng KCN đạt thấp (các dự án KCN có vốn đầu tư nước ngoài đạt 35,7%; dự án đầu tư trong nước đạt 40,3%). Vốn đầu tư bình quân một dự án đầu tư nước ngoài trong KCN là 6 triệu USD và vốn đầu tư trên 1 ha đất xây dựng nhà máy là 1,95 triệu USD, ở mức thấp hơn so với các nước khác trong khu vực. Giá thuê đất gắn với hạ tầng ở nhiều nơi quá cao, chưa thu hút được các nhà đầu tư vào KCN.

Một số địa phương có nhiều thuận lợi trong phát triển công nghiệp và đã phát triển các KCN từ lâu nhưng kết quả đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng. Đặc biệt là thiếu sự phối hợp giữa các KCN, giữa các địa phương trong vùng. Các KCN phát triển riêng rẽ, đầu tư tất cả các hạng mục công trình, đầu tư tốn kém, giảm hiệu quả hoạt động của các KCN. Nhiều nơi do mong muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, thu hút đầu tư nên đã hình thành các KCN theo nhiều cách khác nhau, thiếu đồng bộ dẫn đến gặp phải nhiều vấn đề trong quá trình phát triển (về bảo vệ môi trường, về nguồn vốn, các giải pháp kỹ thuật và đặc biệt là phương thức kinh doanh hạ tầng...). Mặt khác, các KCN còn yếu kém về năng lực cạnh tranh và tính liên kết giữa các KCN và giữa các tỉnh trong khu vực. Nhiều địa phương tự “xé rào” để tạo cơ chế ưu đãi riêng, dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Nói cách khác, về tổng thể chúng ta còn thiếu một tầm nhìn chiến lược trong quy hoạch phát triển KCN. Hậu quả là việc phát triển KCN phân tán, chia cắt, hình thành khắp cả nước (gần như tỉnh nào cũng có KCN), trong đó nhiều KCN xây dựng xong không có khả năng lấp đầy, lãng phí rất lớn.

Thứ hai, phát triển KCN chưa bảo đảm bền vững trên các khía cạnh xã hội, môi trường

Đầu tư phát triển các KCN thời gian qua chưa đảm bảo các điều kiện về cơ sở hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN. Dịch vụ phục vụ KCN, KCX còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Đời sống của người lao động trong KCN, của các hộ dân bị thu hồi đất để xây dựng KCN đã được quan tâm hơn nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống với thu nhập ổn định cho người lao động và gia đình. Việc tập trung lao động quá cao ở một số khu vực có nhiều KCN trong khi các điều kiện hạ tầng xã hội chung của khu vực (đường giao thông, nhà ở, bệnh viện, trường học trung tâm thương mại...) chưa phát triển đồng bộ để đáp ứng nhu cầu đó, nên tạo ra tình trạng quá tải cho khu vực, có thể nhận thấy ở các dấu hiệu ách tắc giao thông, giá cả sinh hoạt tăng cao, nảy sinh các hiện tượng xã hội...

Cơ chế, chính sách hiện hành về đầu tư phát triển các hạng mục bảo vệ môi trường, tiện nghi, tiện ích công cộng trong KCN, KCX và khu dân cư, nhà ở cho người lao động chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư. Hiện nay các khu nhà ở tập trung do Nhà nước đầu tư mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu chỗ ở cho người lao động tại các KCN, còn 90% công nhân phải tự thu xếp chỗ ở, thuê nhà trọ rải rác tại các khu dân cư lân cận với điều kiện sống tạm bợ, hết sức khó khăn. Công tác bảo vệ môi trường chưa được đẩy mạnh đúng mức, đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường sau khi cấp phép đầu tư. Theo giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tỷ lệ các KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15-20% như Bà Rịa - Vũng tàu, Vĩnh Phúc. Một số KCN có xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí xử lý. Đến nay mới có 60 KCN đã hoạt động có trạm xử lý nước thải tập trung (chiếm 42% số KCN đã vận hành) và 20 KCN đang xây dựng trạm xử lý nước thải. Tại một số KCN tình trạng ô nhiễm không khí đang tăng tới mức giới hạn do có nhiều cơ sở sản xuất xi măng, đốt nhiên liệu dầu FO, DO cung cấp cho lò hơi, lò sấy, lò nung.

Thứ ba, các KCN phát triển nhanh nhưng chưa tính đến mục tiêu dài hạn về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu công nghệ.

Các địa phương đã chú trọng tới cơ cấu đầu tư vào KCN, KCX theo hướng ưu tiên ngành công nghệ cao, ít ảnh hưởng tới môi trường, song kết quả đạt được còn hạn chế, hàm lượng công nghệ trong đầu tư còn thấp. Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực công nghệ, các dự án FDI vào KCN hiện nay chủ yếu là công nghiệp thực phẩm là những dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao.

Các dự án công nghiệp nặng chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử, vật liệu xây dựng, sắt thép, hoá chất... còn khá khiêm tốn và tập trung phần lớn tại các Vùng kinh tế trọng điểm. Các ngành công nghiệp có giá trị tăng cao còn chiếm tỷ lệ thấp chưa hỗ trợ hoặc phối hợp được với nhau trên cùng địa bàn và trong cùng khu vực.

Hiện nay chưa có đánh giá đầy đủ về cơ cấu các ngành công nghiệp được đầu tư trong các KCN trên cả nước, nhưng có thể thấy rằng phần lớn là các KCN tổng hợp, có cơ cấu ngành nghề tương đối giống nhau, chưa phân định rõ ngành nghề chủ đạo, lại giới hạn theo ranh giới hành chính, có nhiều cơ chế quản lý không đồng bộ giữa các địa phương dẫn đến hiệu quả kinh doanh hạ tầng kém, gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù quy hoạch phát triển các KCN đã xác định rõ định hướng phát triển và phân bố, quy mô và cơ cấu ngành nghề thu hút đầu tư nhưng chưa có sự phân loại các KCN theo vị trí, chức năng và tầm quan trọng của các KCN để tạo điều kiện phân cấp, xác định cơ chế quản lý và có chính sách đầu tư phát triển phù hợp theo điều kiện của từng vùng lãnh thổ.

Thứ tư, nguồn nhân lực tại các KCN chưa đáp ứng được cả về chất lượng và số lượng

Do kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh tăng mạnh nên nhu cầu về lao động có xu hướng tăng nhanh. Sự khan hiếm nhân lực tập trung ở số lao động có trình độ, kỹ năng chuyên môn. Sau khi gia nhập tổ chức WTO, do thiếu sự đón đầu trong đào tạo và chuẩn bị cho hội nhập, chúng ta còn thiếu chủ động về nguồn nhân lực. Tình trạng thiếu lao động không còn dừng lại ở một số ngành nghề và địa phương mà đã trở thành vấn đề chung của tất cả các KCN hiện nay. Theo báo cáo, mỗi năm các KCN, KCX trên cả nước thu hút được lực lượng lao động khoảng trên 7 vạn lao động, tuy nhiên lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động trong các KCN, KCX (khoảng 4-5%) kỹ thuật viên chiếm 4 - 5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm hơn 30% và còn lại hơn 60% là lao động giản đơn. Tỷ lệ này cho thấy, trình độ trung bình của người lao động trong các KCN, KCX còn rất thấp.

Ở nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá đồng nghĩa với việc gia tăng mạnh mẽ nhu cầu về mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như các KCN. Mặt trái của quá trình công nghiệp hoá cho thấy thay vì biến người nông dân thành công nhân thì lại biến họ thành những người thất nghiệp, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Thực tế này đã trở thành một thách thức lớn, đặt ra yêu cầu cấp bách phải có những chính sách kịp thời từ phía Chính phủ cũng như doanh nghiệp nhằm tạo cho người dân có việc làm để ổn định đời sống. Các nhà quản lý chưa thực sự ý thức vấn đề bảo vệ môi trường, đảm bảo các vấn đề xã hội đời sống người lao động, nhà ở công nhân... trong quản lý hoạt động các KCN, KCX nhằm mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững KCN, KCX dẫn tới quản lý việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, pháp luật về lao động của doanh nghiệp còn lỏng lẻo.

Do đó để đảm bảo cho các KCN phát triển bền vững và hiệu quả, cần thống nhất nhận thức và quan điểm đầu tư phát triển các KCN theo các định hướng chủ yếu sau:

Một là, quy hoạch lại hệ thống KCN trên toàn quốc dựa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của vùng lãnh thổ để lựa chọn mô hình phát triển KCN và cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành nghề công nghiệp phù hợp theo hướng đáp ứng được cả yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới và mở rộng KCN theo đúng quy hoạch; kiên quyết loại khỏi quy hoạch những dự án đầu tư phát triển KCN được dự báo hoạt động không hiệu quả hoặc khó thu hút đầu tư; thu hồi giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư trong KCN mà chậm thực hiện hoặc không có khả năng triển khai. Liên quan đến vấn đề này, cần thay đổi quan niệm truyền thống về trải đều các nguồn lực đầu tư vốn rất hạn chế của ta để phát triển KCN ở tất cả các địa phương, nhất là ở những vùng, miền hạ tầng cơ sở yếu kém, các ngành công nghiệp và hệ thống dịch vụ hỗ trợ chưa có, đặc biệt là thiếu yếu tố nguồn lực con người.

Hai là, hạn chế tối đa việc chuyển đất trồng lúa nước sang xây dựng KCN. Quản lý chặt chẽ đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa nước và trồng cây lương thực để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đảm bảo sự ổn định, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Không xét duyệt quy hoạch chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích xây dựng KCN ở những địa phương có điều kiện sử dụng các loại đất khác. Trường hợp cần thiết phải chuyển đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa nước sang mục đích phát triển KCN hoặc đối với các dự án KCN có ảnh hưởng đến khu vực đất sản xuất nông nghiệp liền kề thì phải có các giải pháp phân kỳ đầu tư hợp lý, sử dụng đất tiết kiệm và đảm bảo tính khả thi, an toàn cho sản xuất nông nghiệp trong khi thực hiện dự án KCN.

Ba là, phát triển KCN kết hợp chặt chẽ với đảm bảo các yếu tố xã hội, môi trường hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật bên ngoài KCN đồng bộ với hệ thống hạ tầng bên trong; chú trọng các giải pháp bảo vệ môi trường trong và ngoài hàng rào KCN; chăm lo điều kiện làm việc, đời sống và nhà ở cho người lao động tại các KCN, KCX, ổn định cuộc sống và tạo việc làm cho người dân trong khu vực quy hoạch xây dựng KCN, KCX; giám sát chặt chẽ việc thi hành pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp KCN, KCX. Chấm dứt việc phát triển các KCN xen lẫn khu dân cư, thực hiện di chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra ngoài đô thị, hướng các nhà đầu tư vào hoạt động trong KCN, ngoại trừ những dự án đòi hỏi nguồn nguyên liệu và quy mô diện tích lớn, các dự án đầu tư chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch.

Bốn là, phát triển các KCN, KCX theo chiều sâu và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo hướng lấp đầy diện tích đất công nghiệp, gắn với hiệu quả sử dụng đất công nghiệp tính trên đơn vị ha, chuyển dịch cơ cấu hoạt động công nghiệp trong KCN thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao, tạo nhiều giá trị gia tăng, thân thiện với môi trường. Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong nước sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp KCN.

Năm là, phát triển các KCN theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá kết hợp với phân bố hợp lý, tập trung xây dựng các KCN chuyên ngành và ngành hỗ trợ. Phát triển KCN phải gắn với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Xác định mô hình phát triển KCN trong bối cảnh hội nhập toàn diện về kinh tế và toàn cầu hoá, phát huy lợi thế so sánh của vùng lãnh thổ và của quốc gia nhằm tạo ra và tận dụng những cơ hội trong quá trình phân công, hợp tác và liên kết, liên doanh phát triển kinh tế toàn cầu.

Trên cơ sở những định hướng phát triển KCN theo hướng bền vững nói trên, phương thức tổ chức và hoạt động của các KCN trong thời gian tới cần có những điều chỉnh cơ bản như sau:

(i) Chuyển đổi thu hút đầu tư vào KCN từ dựa trên yếu tố giá thành sang yếu tố chất lượng dịch vụ.

(ii) Chuyển từ định hướng “trọng cung” sang định hướng “trọng cầu” do phương thức đầu tư phát triển KCN theo hướng “trọng cung” trước đây không đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu và đặc điểm của phát triển công nghiệp một cách bền vững. Cần đa dạng hoá các mô hình phát triển KCN nhằm tăng thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cơ chế quản lý trong tình hình mới.

(iii) Chuyển từ mô hình phát triển các KCN tập trung sang mô hình công viên công nghiệp.

(iv) Chuyển từ cung cấp các dịch vụ cơ bản sang các loại dịch vụ cao cấp.

(v) Phát triển mô hình: "KCN thông minh” để nâng cao năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như đã ứng dụng tại Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia.

(vi) Phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội bên ngoài KCN phải thực hiện đồng bộ, thậm chí đi trước một bước so với đầu tư xây dựng hạ tầng KCN nhằm đảm bảo môi trường đầu tư cả bên trong và ngoài KCN.

(vii) Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty đa quốc gia (TNC).

Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển KCN theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 mà Đại hội X của Đảng đã đề ra, đòi hỏi những người hoạch định chính sách phát triển KCN phải thống nhất về nhận thức vị trí, vai trò của KCN trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt cần phân tích, đánh giá tổng kết kết quả của chính sách phát triển KCN trong thời gian qua, rút ra những mặt tích cực và những hạn chế, tìm ra nguyên nhân của thực trạng. Trên cơ sở này có các giải pháp phù hợp với bối cảnh quốc tế và trong nước, nhất là phù hợp với xu thế toàn cầu hoá kinh tế và lộ trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Nguồn: TC Xây dựng, số 11/2009