Trung quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế xã hội khi nào

Trung Quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế-xã hội khi nào ?

A. Tháng 12/1978.

Show
Đáp án chính xác

B. Tháng 10/1987.

C. Tháng 12/1979.

D. Tháng 9/1982.

Xem lời giải

Trung Quốc: Nhìn lại quá trình 40 năm cải cách, mở cửa

Ngày đăng: 22/11/2018 07:12
Mặc định Cỡ chữ
Trung quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế xã hội khi nào
Trung quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế xã hội khi nào
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1978) mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm, sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp tục tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Trung quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế xã hội khi nào
Vận chuyển hàng hóa tại Liên Vận Cảng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Ảnh: TTXVN

Các giai đoạn cải cách, mở cửa

Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)

Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế (SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế (1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.

Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 - 2002)

Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở các nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.

Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến). Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận, tiến hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992) nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc qụan trọng trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.

Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập, lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu

Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI (năm 2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.

Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh (Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến) cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.

Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay)

Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát triển “5 trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược “Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.

Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách, mở cửa của Trung Quốc

Thành tựu

Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã diễn ra những thay đổi to lớn. Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến lịch sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành công trong ổn định tình hình trước những biến động lớn của thế giới. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đứng trước những thách thức to lớn, như phân hóa giàu nghèo, phân cực đô thị - nông thôn, ô nhiễm môi trường, nợ công của các địa phương, tham nhũng... Xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa trở thành phương hướng cải cách và phát triển chính trị ở Trung Quốc trước thềm thế kỷ XXI. Nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiện toàn hệ thống chính trị, đẩy mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu và đòi hỏi quan trọng để Trung Quốc ứng phó thành công với khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á (năm 1997) và đặc biệt là chủ động mở cửa, đưa Trung Quốc phát triển vượt bậc khi gia nhập WTO. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ(2). Mức tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1997 - 2008 bình quân đạt trên 8%/năm.

Từ khi bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, kinh tế Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu. Năm 2017, GDP của Trung Quốc đạt 82.712,2 tỷ nhân dân tệ (NDT), tăng 6,9% so với năm 2016(3). Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Trung Quốc trong giai đoạn 2013 - 2017 là 7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 - 2017 là khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và cao hơn cả tổng mức đóng góp của Mỹ, các nước trong khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản(4). Một điểm đáng chú ý nữa là GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4 năm mục tiêu GDP năm 2020, tăng gấp 4 lần năm 2000. Tỷ trọng GDP của Trung Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018.

Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% (từ năm 2012 đến 2016). Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012. Năm 2017, chi cho R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so với năm 2016.

Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Năm 2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là 1.567,67 tỷ NDT; nguồn tài chính dành cho khoa học công nghệ là 776,07 tỷ NDT. Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO trên thế giới (phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu), Trung Quốc có 18 doanh nghiệp. Năm 2016, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, như máy tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn Giao Long, máy bay vận tải cỡ lớn..

Về kinh tế đối ngoại, giá trị của thương mại hàng hóa đạt 27,7 nghìn tỷ NDT vào năm 2017, chiếm hơn 11% tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hơn 120 nước.

Mức độ đô thị hóa từ 17,9% năm 1978 tăng lên 58,5% năm 2017. Số thành phố từ 193 tăng lên 657 thành phố. Hiện nay, Trung Quốc có 136.000km đường cao tốc và 25.000km đường sắt cao tốc. Năm 2017, đường sắt cao tốc chuyên chở hơn 3 tỷ lượt khách(5).

Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ 7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Năm 2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập bình quân đầu người của người dân nông thôn ở khu vực nghèo tăng bình quân 10,7% trong giai đoạn 2013 - 2016, tăng nhanh hơn mức bình quân 8% đối với tất cả người dân nông thôn. Số người nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng 30,46 triệu người nghèo(6). Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.

Năm 2017, dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng 813,47 triệu người. Số nghiên cứu sinh là 2,63 triệu người, sinh viên đại học, cao đẳng: 27,53 triệu, số học sinh trung học phổ thông: 23,74 triệu; trung học cơ sở: 44,42 triệu; tiểu học: 1.009 triệu. Từ năm 2011, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ đã vượt 63 triệu người, năm 2017 đạt 81 triệu người. Số sinh viên du học nước ngoài trở về nước là hơn 1,1 triệu người. Năm 2016, số lượng đăng ký bản quyền tác giả là 1.257.439 (WIPO). Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức mạnh mềm” thế giới.

Những vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc hiện nay

Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn. Trung Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%. Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm(7) ; phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.

Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Sự xuất hiện của các tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu gắn với xây dựng xã hội khá giả sẽ là nhân tố không thể bỏ qua trong quá trình cải cách chính trị ở Trung Quốc. Việc chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền. Xây dựng và thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết.

Cục diện thế giới có nhiều diễn biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc được nâng cao khi tổng lượng kinh tế đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa cải cách trong nước và mở cửa đối ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược với các nước lớn hiện nay.

Bài học kinh nghiệm

Qua bốn mươi năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các mô hình chuyển đổi.

Thứ nhất, giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị. Cải cách, mở cửa trước hết phải giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy. Chuyển từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” là bước đột phá về giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy; “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý”, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm, phát triển miền duyên hải phía Đông giàu có lên trước; đó còn là nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội, nhận thức về thời đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Thứ hai, cải cách theo định hướng thị trường: Cải cách, mở cửa là quá trình thay đổi nhận thức và hành động cải cách theo định hướng thị trường; phát huy được các nguồn lực trong xã hội. Qua 40 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã gây dựng được các loại thị trường của các loại hàng hóa, ngành, nghề; xây dựng các chuỗi giá trị theo các ngành nghề, hàng hóa; các nguồn vốn xã hội được huy động và phát huy. Kinh tế dân doanh trở thành lực lượng quan trọng. Năm 2017, Trung Quốc có 65,79 triệu hộ công thương cá thể, có hơn 27,2 triệu doanh nghiệp công thương dân doanh, đóng góp thuế vượt 50% tổng thuế thu; đóng góp cho GDP và đầu tư ra nước ngoài đều vượt 60%, chiếm hơn 70% doanh nghiệp kỹ thuật cao mới(8).

Thứ ba, tiến trình cải cách, mở cửa là tiến trình xử lý các cặp quan hệ giữa cải cách - phát triển và ổn định, giữa nhà nước với thị trường và xã hội, giữa kinh tế với chính trị và xã hội. Cải cách ở Trung Quốc tiến hành theo phương thức tiệm tiến, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm; thí điểm trước, nhân rộng sau.

Tiến trình cải cách, phát triển ở Trung Quốc 40 năm qua phản ánh quá trình kết hợp giữa cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị (như thực hiện chế độ khoán ở nông thôn, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính, chuyển chức năng của chính quyền theo hướng xây dựng chính phủ pháp trị, phục vụ; thực hiện chiến lược phát triển phối hợp vùng, miền...) Tuy nhiên, để cải cách sâu rộng, toàn diện thì cải cách thể chế phải đi trước một bước. Cải cách chính trị, xã hội phải có sự thích ứng trước những biến đổi của tình hình mới, yêu cầu mới. Phải đổi mới tư duy và tháo gỡ về thể chế để mở đường, dẫn dắt. Trung Quốc cũng chú ý giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, quan tâm phát triển xã hội, bảo đảm công bằng và bình đẳng.

Một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Trung Quốc qua 40 năm cải cách, mở cửa là thực hiện kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân làm chủ và quản trị đất nước theo pháp luật; giải quyết mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị - xã hội; phát huy sáng tạo của đội ngũ trí thức, tính tích cực của các tầng lớp xã hội. Xây dựng hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, minh bạch... Nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

Từ cải cách mở cửa, thể chế chính trị đã được hình thành với mô thức: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, quản trị đất nước theo pháp luật” và bốn chế độ cơ bản “chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hợp tác đa đảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và hiệp thương chính trị; chế độ tự trị dân tộc và chế độ tự trị quần chúng cơ sở”. Theo thống kê năm 2016, Trung Quốc có 4,518 triệu tổ chức cơ sở đảng với 89,447 triệu đảng viên(9). Đây là lực lượng chính và cơ sở để Đảng Cộng sản Trung Quốc triển khai các công tác. Đây cũng là lực lượng lãnh đạo xã hội, lực lượng nòng cốt trong thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Từ quá trình cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế (năm 1997 và năm 2007), vượt qua thách thức chu kỳ kinh tế. Trung Quốc cũng vượt qua thách thức của bất ổn xã hội (đỉnh cao là sự kiện Thiên An Môn năm 1989).

Trung Quốc đã lợi dụng tốt thời cơ gia nhập WTO, đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tận dụng tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, bứt phá trong phát triển, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc cũng chú trọng giải quyết vấn đề “tam nông”, bảo đảm các vấn đề về an ninh, quản lý và phát triển xã hội. Trung Quốc cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong sử dụng “thời kỳ cơ hội chiến lược”, xử lý quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ.

Trung Quốc đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện, hướng tới mục tiêu cơ bản hoàn thành hiện đại hóa vào năm 2035 và trở thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Trung Quốc cũng bước vào “thời đại mới”, với sự chuyển biến từ “xây dựng kinh tế làm trung tâm” sang “lấy nhân dân làm trung tâm”, giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu mới. Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” qua các giải pháp, như xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, tiếp tục thúc đẩy ý tưởng chiến lược “Vành đai, Con đường”, đẩy mạnh thực hiện thí điểm các khu mậu dịch tự do mới, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do thí điểm Hải Nam. Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu cường quốc với sự tin tưởng về con đường, lý luận, chế độ và văn hóa (4 tự tin).

Tuy nhiên, Trung Quốc tiến hành cải cách giai đoạn mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến đổi nhanh chóng và khó lường. Đặc biệt là sự đối nghịch giữa xu hướng đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế và chống toàn cầu hóa kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân tộc, dân túy... trong khi tình hình địa - chính trị xung quanh Trung Quốc có nhiều thách thức, như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển với một số nước Đông Á..., cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Mỹ, thể hiện trực tiếp qua cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay.

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, dự báo Trung Quốc về cơ bản giữ được ổn định xã hội, kinh tế giữ tốc độ tăng trưởng trung bình, song những mâu thuẫn lớn có khả năng phát sinh từ nửa cuối thập niên thứ ba thế kỷ XXI. Chúng ta trông chờ Trung Quốc tiếp tục phát triển phồn vinh, đóng góp tích cực cho hòa bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới. /.

TS.Nguyễn Xuân Cường - Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

---------------------------------------------------------

(1) http://www.china.com.cn/chinese/archive/131747.htm
(2) http://finance.sina.com.cn/roll/20100818/01258499585.shtml
(3) Công báo thống kê kinh tế xã hội Trung Quốc 2017 (人民日报 2018年03月01日 10 版)
(4) http://europe.chinadaily.com.cn/business/2017-10/11/content_33104818.htm
(5) http://www.gov.cn/xinwen/2018-02/14/content_5266772.htm
(6) http://www.xinhuanet.com/politics/2018-09/04/c_1123374403.htm
(7) http://politics.people.com.cn/n1/2017/1221/c1001-29719813.html (21-12-2017)
(8) http://www.xinhuanet.com/fortune/2018-05/02/c_1122769552.htm
(9) http://www.xinhuanet.com/politics/2017-06/30/c_1121242478.htm

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Lịch sử hình thành và sơ khai (1921–1927)
    • 1.2 Nội chiến Trung Quốc và Chiến tranh thế giới thứ hai (1927–1949)
    • 1.3 Đảng cầm quyền duy nhất (1949 – nay)
  • 2 Ý thức hệ
    • 2.1 Hệ tư tưởng chính thức
    • 2.2 Kinh tế học
  • 3 Quản trị
    • 3.1 Lãnh đạo tập thể
    • 3.2 Tập trung dân chủ
    • 3.3 Song quy
    • 3.4 Hệ thống hợp tác đa phương
  • 4 Tổ chức
    • 4.1 Tổ chức trung ương
    • 4.2 Tổ chức cấp thấp hơn
    • 4.3 Thành viên
    • 4.4 Đoàn thanh niên cộng sản
  • 5 Biểu tượng
  • 6 Quan hệ với các đảng khác
    • 6.1 Đảng cộng sản
      • 6.1.1 Các đảng cầm quyền của các quốc gia xã hội chủ nghĩa
    • 6.2 Các đảng không cộng sản
  • 7 Các Đại hội Đảng
    • 7.1 Đại hội I (1921)
    • 7.2 Đại hội II (1922)
    • 7.3 Đại hội III (1923)
    • 7.4 Đại hội IV (1925)
    • 7.5 Đại hội V (1927)
    • 7.6 Đại hội VI (1928)
    • 7.7 Đại hội VII (1945)
    • 7.8 Đại hội VIII (1956)
    • 7.9 Đại hội IX (1969)
  • 8 Sự kiện liên quan
  • 9 Thông tin thêm
    • 9.1 Đảng kỳ và Đảng huy
    • 9.2 Các lãnh đạo tối cao qua các thời kỳ
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Tham khảo

Lịch sử

Lịch sử hình thành và sơ khai (1921–1927)

Địa điểm tổ chức đại hội đầu tiên của ĐCSTQ, trong Khu Tô giới Pháp trước đây

Đảng Cộng sản Trung Quốc có nguồn gốc từ Phong trào ngày 4 tháng 5 năm 1919, trong đó các hệ tư tưởng cấp tiến của phương Tây như chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa vô chính phủ đã giành được sức hút trong giới trí thức Trung Quốc.[3] Những ảnh hưởng khác bắt nguồn từ cuộc cách mạng Bolshevik và lý thuyết của chủ nghĩa Mác đã truyền cảm hứng cho Đảng Cộng sản Trung Quốc.[4] Lý Đại Chiêu là trí thức hàng đầu Trung Quốc đầu tiên công khai ủng hộ chủ nghĩa Lenin và cách mạng thế giới.[5] Trái ngược với Trần Độc Tú, Lý không từ bỏ tham gia vào các công việc của Trung Hoa Dân Quốc.[6] Cả hai người đều coi Cách mạng Tháng Mười ở Nga là một bước đột phá, tin rằng nó sẽ báo trước một kỷ nguyên mới cho các nước bị áp bức ở khắp mọi nơi.[6] Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ chức theo lý thuyết của Vladimir Lenin về một đảng tiên phong.[7] theo Cai Hesen, là "những cơ sở thô sơ [của đảng chúng tôi]".[8] Một số giới nghiên cứu đã được thành lập trong Phong trào Văn hóa Mới, nhưng "vào năm 1920, sự hoài nghi về tính phù hợp của chúng với tư cách là phương tiện cải cách đã trở nên phổ biến." [9]

Đại hội toàn quốc thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ chức vào ngày 23-31 tháng 7 năm 1921.[10] Chỉ với 50 thành viên vào đầu năm 1921, tổ chức và chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát triển vượt bậc.[11] Trong khi ban đầu nó được tổ chức tại một ngôi nhà ở Khu Tô giới Pháp Thượng Hải, cảnh sát Pháp đã làm gián đoạn cuộc họp vào ngày 30 tháng 7 [12] và đại hội được di chuyển đến một chiếc thuyền du lịch trên Hồ Nam ở Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang.[12] Chỉ có 12 đại biểu tham dự đại hội, cả Lý và Trần đều không thể tham dự, [12] sau đó cử đại diện cá nhân thay thế.[12] Các nghị quyết của đại hội kêu gọi thành lập một đảng cộng sản (với tư cách là một chi nhánh của Quốc tế Cộng sản) và bầu Trần làm lãnh đạo của nó.[12]

Những người cộng sản thống trị cánh tả của Quốc dân đảng, một đảng được tổ chức theo đường lối của chủ nghĩa Lenin, tranh giành quyền lực với cánh hữu của đảng[13]. Khi lãnh tụ Quốc dân đảng Tôn Trung Sơn qua đời vào tháng 3 năm 1925, ông được kế vị bởi một người cực hữu, Tưởng Giới Thạch, người đã khởi xướng các động thái nhằm gạt bỏ vị trí của những người cộng sản[13]. Mới bắt đầu từ sự thành công của cuộc Viễn chinh phương Bắc để lật đổ các lãnh chúa, Tưởng Giới Thạch đã quay lại với những người cộng sản, hiện đã lên tới hàng chục nghìn người trên khắp Trung Quốc[14]. Bỏ qua mệnh lệnh của chính phủ KMT có trụ sở tại Vũ Hán, ông hành quân đến Thượng Hải, một thành phố do dân quân cộng sản kiểm soát. Mặc dù những người cộng sản hoan nghênh sự xuất hiện của Tưởng, ông đã lật tẩy họ, tàn sát 5.000 người với sự hỗ trợ của Green Gang[14][15][16]. Quân đội của Tưởng sau đó hành quân đến Vũ Hán, nhưng bị tướng Ye Ting và quân của ông ta ngăn cản việc chiếm thành phố[17]. Các đồng minh của Tưởng cũng tấn công những người cộng sản; ở Bắc Kinh, 19 cộng sản hàng đầu đã bị Zhang Zuolin giết chết, trong khi ở Trường Sa, lực lượng của He Jian đã bắn hàng trăm dân quân nông dân[18][19]. Tháng 5 năm đó, hàng chục ngàn người cộng sản và những người có cảm tình với họ đã bị giết bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc, với việc Đảng Cộng sản Trung Quốc mất khoảng 15.000 trong số 25.000 đảng viên[19].

Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục ủng hộ chính phủ Quốc Dân Đảng Vũ Hán, [19] nhưng vào ngày 15 tháng 7 năm 1927, chính phủ Vũ Hán đã trục xuất tất cả những người cộng sản khỏi Quốc Dân Đảng.[20] Đảng Cộng sản Trung Quốc phản ứng bằng cách thành lập Hồng quân Công nhân và Nông dân Trung Quốc, hay còn được gọi là " Hồng quân ", để chiến đấu với Quốc dân đảng. Một tiểu đoàn do tướng Chu Đức chỉ huy được lệnh đánh chiếm thành phố Nam Xương vào ngày 1 tháng 8 năm 1927 trong cuộc nổi dậy Nam Xương; thành công ban đầu, họ buộc phải rút lui sau năm ngày, hành quân về phía nam đến Sán Đầu, và từ đó bị dồn vào vùng hoang vu Phúc Kiến.[20] Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh Hồng quân, và chỉ huy bốn trung đoàn chống lại Trường Sa trong cuộc nổi dậy Thu hoạch, với hy vọng khơi dậy các cuộc nổi dậy của nông dân trên khắp Hồ Nam.[21] Kế hoạch của ông là tấn công thành phố do Quốc Dân Đảng trấn giữ từ ba hướng vào ngày 9 tháng 9, nhưng Trung đoàn 4 đã đào ngũ vì Quốc Dân Đảng, tấn công Trung đoàn 3. Quân đội của Mao đã đến được Trường Sa, nhưng không thể chiếm được; đến ngày 15 tháng 9, ông chấp nhận thất bại, cùng 1.000 người sống sót hành quân về phía đông đến dãy núi Cương Sơn thuộc Giang Tây.[21] [22] [23]

Nội chiến Trung Quốc và Chiến tranh thế giới thứ hai (1927–1949)

Cờ của Hồng quân Công nhân và Nông dân Trung Quốc

Bộ máy tổ chức đô thị của Đảng Cộng sản Trung Quốc gần như bị phá hủy đã dẫn đến những thay đổi thể chế trong đảng.[24] Đảng áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, một phương thức tổ chức các đảng phái cách mạng, và thành lập Bộ Chính trị (với chức năng là ban thường vụ của Ủy ban Trung ương).[24] Kết quả là đã tăng cường tập trung quyền lực trong đảng.[24] Ở mọi cấp của đảng, điều này được lặp lại, với các ủy ban thường vụ hiện đang kiểm soát hiệu quả.[24] Sau khi Trần Độc Tú bị hạ bệ, Lý Lập Tam có thể đảm nhận quyền kiểm soát trên thực tế đối với tổ chức đảng vào năm 1929–30.[24] Sự lãnh đạo của Lý Lập Tam thất bại, khiến Đảng Cộng sản Trung Quốc trên bờ vực diệt vong.[24] Comintern bắt đầu tham gia, và vào cuối năm 1930, quyền hạn của ông đã bị tước bỏ.[24] Đến năm 1935, Mao trở thành ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị của đảng và là lãnh đạo không chính thức của đảng, với Chu Ân Lai và Trương Văn Thiên, trở thành những đứng đầu chính thức của đảng, làm phó không chính thức của ông.[24] Xung đột với Quốc Dân Đảng dẫn đến việc tổ chức lại Hồng quân, với quyền lực hiện tập trung vào ban lãnh đạo thông qua việc thành lập các bộ phận chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc chịu trách nhiệm giám sát quân đội.[24]

Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai khiến xung đột giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng tạm dừng.[25] Mặt trận Thống nhất thứ hai được thành lập giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng để giải quyết cuộc xâm lược.[26] Trong khi mặt trận chính thức tồn tại cho đến năm 1945, tất cả sự hợp tác giữa hai bên đã kết thúc vào năm 1940.[26] Mặc dù có liên minh chính thức, nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tận dụng cơ hội để mở rộng và xây dựng các cơ sở hoạt động độc lập để chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới. với Quốc Dân Đảng.[27] Năm 1939, Quốc Dân Đảng bắt đầu hạn chế sự bành trướng của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Trung Quốc.[27] Điều này dẫn đến các cuộc đụng độ thường xuyên giữa các lực lượng Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng [27] nhưng nhanh chóng lắng xuống khi cả hai bên nhận ra rằng nội chiến không phải là một lựa chọn.[27] Tuy nhiên, đến năm 1943, Đảng Cộng sản Trung Quốc một lần nữa tích cực mở rộng lãnh thổ của mình từ lãnh thổ của Quốc dân Đảng.[27]

Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949.

Mao Trạch Đông trở thành Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1945. Từ năm 1945 đến năm 1949, chiến tranh đã giảm xuống còn hai bên; Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng.[28] Thời kỳ này kéo dài qua bốn giai đoạn; lần thứ nhất là từ tháng 8 năm 1945 (khi quân Nhật đầu hàng) đến tháng 6 năm 1946 (khi hòa đàm giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Dân Đảng kết thúc).[28] Đến năm 1945, Quốc Dân Đảng có số binh sĩ dưới quyền nhiều gấp ba lần so với Đảng Cộng sản Trung Quốc và ban đầu dường như đang chiếm ưu thế.[28] Với sự hợp tác của người Mỹ và người Nhật, Quốc Dân Đảng đã có thể chiếm lại những phần lớn của đất nước.[28] Tuy nhiên, Quốc dân Đảng cai trị các lãnh thổ được tái thẩm định sẽ không được ưa chuộng vì tình trạng tham nhũng phổ biến của đảng.[28] Bất chấp ưu thế lớn về số lượng, Quốc dân Đảng đã thất bại trong việc tái chiếm các vùng lãnh thổ nông thôn vốn đã tạo nên thành trì của Đảng Cộng sản Trung Quốc.[28] Cũng trong khoảng thời gian đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động cuộc xâm lược Mãn Châu, nơi họ được Liên Xô hỗ trợ.[28] Giai đoạn thứ hai, kéo dài từ tháng 7 năm 1946 đến tháng 6 năm 1947, Quốc dân Đảng mở rộng quyền kiểm soát đối với các thành phố lớn, chẳng hạn như Diên An (trụ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong phần lớn thời gian chiến tranh).[28] Những thành công của Quốc Dân Đảng là rỗng tuếch; Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chiến thuật rút lui khỏi các thành phố, và thay vào đó tấn công chính quyền Quốc dân đảng bằng cách xúi giục các cuộc biểu tình giữa sinh viên và trí thức trong các thành phố (Quốc dân đảng đã phản ứng với những sự kiện này bằng sự đàn áp nặng nề).[29] Trong khi đó, Quốc Dân Đảng đang phải vật lộn với cuộc đấu đá nội bộ phe phái và sự kiểm soát chuyên quyền của Tưởng Giới Thạch đối với đảng, điều này làm suy yếu khả năng phản ứng của Quốc Dân Đảng trước các cuộc tấn công.[29] Giai đoạn thứ ba, kéo dài từ tháng 7 năm 1947 đến tháng 8 năm 1948, chứng kiến một cuộc phản công hạn chế của Đảng Cộng sản Trung Quốc.[29] Mục tiêu là xóa bỏ "miền Trung Trung Quốc, củng cố miền Bắc Trung Quốc và khôi phục Đông Bắc Trung Quốc." [30] Chính sách này, cùng với việc đào ngũ khỏi lực lượng quân đội Quốc dân đảng (vào mùa xuân năm 1948, quân đội Quốc dân đảng đã mất khoảng 2 trong số 3 triệu quân) và sự phổ biến của chế độ Quốc dân đảng ngày càng giảm.[29] Kết quả là Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có thể cắt đứt các đơn vị đồn trú của Quốc dân đảng ở Mãn Châu và chiếm lại một số lãnh thổ đã mất.[30] Giai đoạn cuối, kéo dài từ tháng 9 năm 1948 đến tháng 12 năm 1949, chứng kiến những người cộng sản nắm quyền chủ động và sự sụp đổ của sự thống trị của Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc đại lục nói chung.[30] Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, biểu thị sự thành công của Cách mạng Trung Quốc.[30]

Đảng cầm quyền duy nhất (1949 – nay)

Cờ của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ ngày 17 tháng 6 năm 1951 đến ngày 21 tháng 7 năm 1996

Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Chủ tịch Mao Trạch Đông tuyên bố ngày 21 tháng 9 năm 1949 thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trước một đám đông lớn tại Quảng trường Bắc Kinh. Đến cuối năm, Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành đảng cầm quyền lớn ở Trung Quốc.[31] Từ thời điểm này đến những năm 1980, các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc (như Mao Trạch Đông, Lâm Bưu, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình) hầu hết đều là những nhà lãnh đạo quân sự trước khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.[32] Kết quả là, các mối quan hệ cá nhân không chính thức giữa các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự đã chi phối các mối quan hệ dân sự-quân sự.[32]

Trong những năm 1960 và 1970, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trải qua một sự tách biệt đáng kể về ý thức hệ khỏi Đảng Cộng sản Liên Xô.[33] Vào thời điểm đó, Mao bắt đầu nói rằng "cuộc cách mạng tiếp tục dưới chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản " quy định rằng những kẻ thù giai cấp đang tiếp tục tồn tại mặc dù cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa dường như đã hoàn thành, dẫn đến cuộc Cách mạng Văn hóa trong đó hàng triệu người bị đàn áp, nhiều người trong số đó bị xử tử.[34]

Những người cộng sản Trung Quốc kỷ niệm sinh nhật của Joseph Stalin, năm 1949.

Sau cái chết của Mao năm 1976, một cuộc tranh chấp quyền lãnh đạo giữa Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Hoa Quốc Phong và Phó Chủ tịch Đặng Tiểu Bình đã nổ ra.[35] Đặng đã thắng trong cuộc đấu này, và trở thành "nhà lãnh đạo tối cao" vào năm 1978.[35] Đặng, cùng với Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, đi đầu trong chính sách Cải cách và mở cửa, đồng thời đưa ra khái niệm tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, đưa Trung Quốc đến các thị trường trên thế giới.[36] Khi đảo ngược một số chính sách "tả khuynh" của Mao, Đặng lập luận rằng một nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể sử dụng kinh tế thị trường mà bản thân nó không phải là tư bản chủ nghĩa.[37] Trong khi khẳng định quyền lực chính trị của Đảng, sự thay đổi trong chính sách đã tạo ra tăng trưởng kinh tế đáng kể.[3] Tuy nhiên, hệ tư tưởng mới đã bị tranh cãi ở cả hai phía, bởi những người theo chủ nghĩa Mao cũng như những người ủng hộ tự do hóa chính trị. Với các yếu tố xã hội khác, xung đột lên đến đỉnh điểm trong các cuộc biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989.[38] Các cuộc phản đối đã bị dập tắt, tầm nhìn của Đặng về kinh tế thắng thế, và vào đầu những năm 1990, khái niệm kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã được đưa ra.[39] Năm 1997, tư tưởng của Đặng (Lý thuyết Đặng Tiểu Bình), được đưa vào điều lệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc.[40]

Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân kế nhiệm Đặng làm "lãnh đạo tối cao" vào những năm 1990, và tiếp tục hầu hết các chính sách của ông.[41] Trong những năm 1990, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chuyển đổi từ một nhà lãnh đạo cách mạng kỳ cựu dẫn đầu cả về quân sự và chính trị, thành một tầng lớp chính trị ngày càng được tái sinh theo các chuẩn mực được thể chế hóa trong bộ máy công quyền.[42] Lãnh đạo chủ yếu được lựa chọn dựa trên các quy tắc và tiêu chuẩn về thăng chức và nghỉ hưu, nền tảng giáo dục, và chuyên môn quản lý và kỹ thuật.[42] Có một nhóm sĩ quan quân đội chuyên nghiệp hóa phần lớn riêng biệt, phục vụ dưới sự lãnh đạo hàng đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc phần lớn thông qua các mối quan hệ chính thức trong các kênh thể chế.[42]

Là một phần trong di sản danh nghĩa của Giang Trạch Dân, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phê chuẩn Ba đại diện cho bản sửa đổi điều lệ năm 2003 của đảng, như một "ý thức hệ chỉ đạo" để khuyến khích đảng đại diện cho "lực lượng sản xuất tiên tiến, nền văn hóa tiến bộ của Trung Quốc, và nền tảng lợi ích của người dân. " [43] Lý thuyết đã hợp pháp hóa sự gia nhập của các chủ doanh nghiệp tư nhân và các phần tử tư sản vào đảng.[43] Hồ Cẩm Đào, người kế nhiệm Giang Trạch Dân làm Tổng Bí thư, nhậm chức năm 2002.[44] Không giống như Mao, Đặng và Giang Trạch Dân, Hồ đặt trọng tâm vào sự lãnh đạo tập thể và phản đối sự thống trị của một người trong hệ thống chính trị.[44] Sự khăng khăng tập trung vào tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến một loạt các vấn đề xã hội nghiêm trọng. Để giải quyết những vấn đề này, Hu đã đưa ra hai khái niệm tư tưởng chính: Triển vọng khoa học về phát triển và xã hội xã hội chủ nghĩa hài hòa.[45] Hồ từ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch Quân ủy Trung ương tại Đại hội toàn quốc lần thứ 18 tổ chức vào năm 2012 và được Tập Cận Bình kế nhiệm cả hai chức vụ.[46][47]

Kể từ khi lên nắm quyền, ông Tập đã khởi xướng một chiến dịch chống tham nhũng trên diện rộng, đồng thời tập trung quyền lực vào văn phòng tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc với chi phí của sự lãnh đạo tập thể của những thập kỷ trước. Các nhà bình luận đã mô tả chiến dịch này là "một phần xác định nhiệm kỳ chủ tịch của ông Tập" cũng như "lý do chính khiến ông có thể củng cố quyền lực của mình một cách nhanh chóng và hiệu quả." [48] Các nhà bình luận nước ngoài đã ví ông như Mao Trạch Đông.[49] Sự lãnh đạo của Tập cũng đã giám sát sự gia tăng vai trò của đảng ở Trung Quốc.[50] Tập đã bổ sung hệ tư tưởng, được đặt theo tên của ông, vào điều lệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017.[51] Như đã được suy đoán, Tập Cận Bình có thể không nghỉ hưu sau khi phục vụ 10 năm vào năm 2022.[52][53]

Bài học kinh nghiệm từ quá trình cải cách hành chính tại Trung Quốc

01/07/2010

Nguyễn Văn Cường, TS. Phó Vụ trưởng Vụ Địa phương, Văn phòng Chính phủ

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt, đặc biệt là từ sau cải cách mở cửa năm 1979. Có được những thành công đó là do Trung Quốc đã kiên trì thực hiện công cuộc đổi mới và tiến hành cải cách hành chính (CCHC) một cách sâu rộng và đồng bộ trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Từ năm 1982 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành sáu cuộc cải cách với quy mô lớn. Kết quả thu được khá toàn diện trên các lĩnh vực của hệ thống hành chính; thể chế hành chính quan liêu bao cấp đã chuyển mạnh sang thể chế hành chính thích ứng với cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đang từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đều đang tiến hành CCHC. Kinh nghiệm của Trung Quốc là bài học có giá trị đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trung Quốc là một nước XHCN, có hệ thống chính trị đặc thù. Chế độ chính trị cơ bản của Trung Quốc là chế độ đa đảng hợp tác và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thực hiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân và chế độ tự trị quần chúng cơ sở trên một quốc gia có nhiều dân tộc thống nhất với bộ máy tổ chức nhà nước.
Thực hiện đường lối cải cách mở cửa, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và quốc tế, Trung Quốc đã tiến hành cải cách khá toàn diện trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó CCHC cơ quan hành pháp đóng vai trò quan trọng.
1. Sáu cuộc cải cách
Từ 1979 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành sáu cuộc cải cách. Có thể điểm qua nội dung chính của các cuộc cải cách như sau:
Lần thứ nhất: Năm 1982, trọng tâm đợt này là tinh giản bộ máy và biên chế; đưa ra phương châm tứ hóa "cách mạng hoá, trẻ hoá, tri thức hoá, chuyên nghiệp hóa" đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng chế độ về hưu; nới lỏng quyền hạn quản lý kinh tế, thu chi tài chính và quản lý nhân sự.
Lần thứ hai: Năm 1988, tiếp tục cải cách cơ cấu gắn với chuyển đổi chức năng của chính quyền, thực hiện tách bạch chính quyền với doanh nghiệp, tinh giản các cơ quan chuyên môn, mở rộng các lĩnh vực CCHC, tăng cường các cơ quan điều tiết vĩ mô.
Lần thứ ba: Năm 1993, mục tiêu cải cách nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN; mở rộng và đi sâu trong cải cách cơ cấu, lấy chuyển đổi chức năng chính quyền làm trọng điểm, đề ra phương châm tách bạch giữa chính quyền và doanh nghiệp là con đường căn bản của chuyển đổi chức năng.
Lần thứ tư: Năm 1998, mục tiêu xây dựng thể chế quản lý hành chính nhằm thích ứng với kinh tế thị trường XHCN, kết quả đã giải thể hàng loạt các cơ quan quản lý kinh tế công nghiệp và các công ty, tổng hội có tính chất hành chính.
Lần thứ năm: Năm 2003, tách rời chính quyền và doanh nghiệp, tiến thêm một bước chuyển đổi chức năng của chính quyền, điều chỉnh việc sắp xếp cơ cấu của chính quyền, phân công hợp lý chức năng của các Bộ, ngành, cải cách thể chế quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Lần thứ sáu: Năm 2008, tập trung vào việc giải quyết vấn đề nhân sinh và những mâu thuẫn nổi cộm ảnh hướng đến phát triển khoa học và ổn định xã hội còn tồn tại trong quản lý chính quyền, nhấn mạnh cải thiện điều tiết kinh tế, giám sát chặt chẽ thị trường, đẩy mạnh quản lý xã hội, chú trọng đến dịch vụ công. Để phục vụ mục đích của cải cách lần này, cơ cấu của Quốc vụ viện cũng được cải cách một cách mạnh mẽ.
2. Thành tựu nổi bật qua các lần cải cách và một số hạn chế
Sau 30 năm thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc đã thành công trong việc phát triển kinh tế, thể chế kinh tế đã chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đầy năng động. Thành tựu nổi bật qua các lần cải cách được thể hiện nổi bật 6 mặt sau đây:
Thứ nhất, tinh giản cơ cấu chính quyền và chuyển giao quyền lực cho doanh nghiệp, phát huy tính tích cực của địa phương, doanh nghiệp, các đơn vị cơ sở và quần chúng nhân dân:
Cải cách cơ chế quản lý tập trung quyền lực cao độ của cơ chế kinh tế bao cấp, chuyển sang việc giao quyền lực cho chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Phương châm đổi mới chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ được xác định là "quản lý vĩ mô, giám sát thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ công". Theo đó, bảy lĩnh vực Chính phủ trung ương tập trung quản lý là quốc phòng, ngoại giao, chính sách tài chính, ngân hàng, điện lực, thông tin, đường sắt. Các lĩnh vực còn lại thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương.
Tinh giản biên chế mà biện pháp quan trọng nhất là sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp; chuyển một bộ phận lớn các đơn vị sự nghiệp công thành doanh nghiệp để xoá bỏ chế độ bao cấp. Ví dụ: ở Thượng Hải đã chuyển 144 đơn vị sự nghiệp thành 354 doanh nghiệp độc lập, giảm được 15% biên chế.; thành phố chỉ trợ cấp cho các bệnh viện 3-4% kinh phí, còn lại là tự trang trải; các trường đại học nhà nước cấp 40% kinh phí, còn lại nhà trường tự trang trải.
Thứ hai, từng bước tối ưu hóa cơ cấu tổ chức của chính quyền, không ngừng tinh giản cơ cấu và cán bộ.
Thông qua cải cách tối ưu hóa chính quyền, các bộ ngành quản lý kinh tế công nghiệp của cơ chế kinh tế bao cấp cơ bản bị tháo gỡ, bước đầu xây dựng khung hệ thống cơ cấu thích ứng với cơ chế thị trường XHCN, lấy các bộ, ngành điều tiết vĩ mô, quản lý giám sát thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ công làm chủ chốt. Năm 1981, Quốc vụ viện có 100 cơ quan, năm 1998 giảm còn 29 cơ quan, năm 2008 chỉ còn 27 cơ quan.
Chính quyền địa phương được tổ chức thành ba cấp hoàn thiện hơn, trong đó cấp tỉnh và tương đương gồm 31 đơn vị (22 tỉnh, bốn thành phố trực thuộc trung ương, năm khu tự trị) và hai khu hành chính đặc biệt. Về cơ cấu xã, trước đổi mới, xã bao gồm các đội sản xuất, hiện nay được tổ chức thành làng, lập ra Uỷ ban làng tự quản do dân trực tiếp bầu, nhiệm kỳ ba năm. Chính quyền đô thị ở Trung Quốc được tổ chức thành hai cấp (thành phố và quận), cấp hành chính được tổ chức cấp thành phố, quận và khu phố. Mục tiêu cải cách cơ cấu trong thời gian qua là giảm thiểu các doanh nghiệp nhà nước, bỏ cơ chế chính quyền trực tiếp quản lý doanh nghiệp; sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp. Hiện tại, Trung Quốc chỉ còn 189 doanh nghiệp nhà nước do trung ương trực tiếp quản lý (trong tổng số 300.000 doanh nghiệp quốc hữu); cơ bản không còn doanh nghiệp thuộc bộ. Trung Quốc đã thành lập Uỷ ban Quản lý tài sản quốc hữu ở cấp trung ương và đang triển khai ở cấp địa phương.
Năm 2004 thông qua Luật Hành chính, tinh thần của luật là giảm thiểu nội dung quản lý nhà nước, trên cơ sở đó tiếp tục thu gọn bộ máy quản lý hành chính. Biên chế cơ quan Đảng, chính quyền toàn quốc giảm từ 7,39 triệu người xuống còn 6,24 triệu người, tổng cộng tinh giản 1,15 triệu người.
Thứ ba, có một bước tiến quan trọng trong việc chuyển đổi chức năng của chính quyền, vai trò quan trọng của thị trường trong việc điều phối các nguồn lực tăng lên một cách rõ nét.
Việc tách rời giữa chính quyền và doanh nghiệp đã mở đường cho việc giảm thiểu sự can dự của chính quyền vào các hoạt động kinh tế vi mô, chức năng quản lý tài sản và quản lý công được tách bạch. Vai trò của nền kinh tế thị trường, nguồn lực cơ bản đã chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang chịu sự phân phối của cơ chế thị trường. Chế độ xét duyệt hành chính được cải tiến một cách mạnh mẽ, tiến bộ, trước đây Quốc vụ viện xét duyệt 3.605 hạng mục, qua bốn lần cải cách đã giảm và điều chỉnh chỉ còn 1.994 hạng mục, chiếm 55,3% hạng mục.
Thứ tư, không ngừng hoàn thiện chức năng quản lý xã hội và dịch vụ công của chính quyền.
Hoàn thiện chức năng dịch vụ công của chính quyền, tiến một bước dài trong lĩnh vực dịch vụ công và các sự nghiệp xã hội; đầu tư vào dịch vụ công không ngừng gia tăng, diện bao phủ của dịch vụ công không ngừng mở rộng và đạt hiệu quả rõ rệt. Ví dụ, số người tham gia bảo hiểm dưỡng lão ở thành phố và thị trấn tăng từ 57 triệu người năm 1989 lên 219 triệu người năm 2008, bảo hiểm y tế tăng từ bốn triệu người năm 1994 lên 318 triệu năm 2008. Số người tham gia chế độ hợp tác y tế nông thôn mô hình mới đạt 815 triệu người năm 2009 (đã cơ bản thực hiện phủ kín nhân khẩu khu vực nông thôn). Tỷ lệ nhập học tiểu học đúng độ tuổi của trẻ em Trung Quốc tăng lên 99%, quy mô sinh viên đại học năm 2008 tăng lên 27 triệu người, đứng đầu thế giới. Chi phí giáo dục văn hóa từ 1,5 tỷ năm 1978 tăng lên 10,8 tỷ năm 2006 (tăng 73 lần).
Thứ năm, ngày càng hoàn thiện cơ chế vận hành của Chính phủ, thúc đẩy toàn diện nền hành chính tuân thủ pháp luật
Quốc vụ viện Trung Quốc có đề cương thúc đẩy toàn diện nền hành chính tuân thủ pháp luật, nhằm mục tiêu xây dựng nền hành chính tuân thủ pháp luật. Trong Chương trình thực hiện quản lý hành chính toàn diện năm 2004 đã làm rõ các tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu cụ thể, nguyên tắc cơ bản, yêu cầu và nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện việc quản lý toàn diện hệ thống hành chính trong 10 năm. Chính phủ tập trung cải cách thể chế chính quyền, mục tiêu của cải cách thể chế là chuyển đổi hơn nữa chức năng của Chính phủ, hoàn thiện cơ cấu thể chế Chính phủ...
Đã có 82 thành phố được thí điểm có quyền lực xử phạt hành chính tập trung được Chính phủ trao quyền, 190 chính quyền thành phố và 804 chính quyền huyện đã triển khai quyền lực xử phạt hành chính tập trung.
Cuối năm 2007, đã có 24 cơ quan thuộc Quốc vụ viện quy định chuyên môn về thủ tục hành chính. Công tác giám sát phòng chống tham nhũng trong cơ quan Đảng và cơ quan hành chính được quy định cụ thể, chặt chẽ hơn.
Những năm gần đây, theo yêu cầu của Đại hội Đại biểu nhân dân và “Luật xem xét lại về mặt hành chính”, chính quyền và các cơ quan quản lý ở tất cả các cấp đã liên tục cải thiện hệ thống phối hợp và thủ tục chi tiết để xem xét lại về mặt hành chính, cho phép xem xét lại về mặt hành chính trong giải quyết tranh chấp hành chính, xây dựng mối liên kết chặt chẽ hơn giữa chính quyền và nhân dân, giảm bớt mâu thuẫn xã hội, duy trì sự ổn định và hài hòa xã hội.
Thứ sáu, Chính phủ không ngừng sáng tạo phương pháp quản lý, công cuộc xây dựng của Chính phủ đạt được hiệu quả rõ rệt với hai hình thức chủ yếu là:
Chương trình tin học hoá và xây dựng Chính phủ điện tử: Cho đến nay, các bộ đều đã xây dựng được mạng nội bộ. Giao dịch bằng điện tử đã được thực hiện giữa các bộ với các tỉnh, khu tự trị trực thuộc trung ương. Các bộ, các tỉnh và khu tự trị cũng xây dựng được trang Web riêng. Ở một số thành phố lớn, người dân đã có thể truy cập được thông tin của Chính phủ trên mạng Internet. Ở một số khu vực kinh tế phát triển và đô thị, những dịch vụ hành chính công chủ yếu như đăng ký thuế, hải quan… đã thực hiện thông qua mạng điện tử. Thành phố Bắc Kinh đã thiết lập mạng nội bộ mang tên "Cửa sổ thành phố".
Uỷ ban cải cách cơ cấu Trung Quốc: Ủy ban cải cách cơ cấu trung ương là cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện, có thẩm quyền đặc biệt chịu trách nhiệm chung về chương trình CCHC ở Trung Quốc. Chủ nhiệm Uỷ ban là Thủ tướng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban là Phó Chủ tịch nước. Các thành viên khác gồm: Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc vụ viện, Bộ trưởng Bộ Nhân sự và một số Bộ trưởng khác. Tất cả các nội dung và quá trình cải cách đều đặt dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban này.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được qua sáu lần cải cách, CCHC ở Trung Quốc vẫn còn một số tồn tại như: trình độ dịch vụ công của chính quyền được nâng cao rõ rệt, song vẫn khó lòng thỏa mãn được nhu cầu xã hội ngày càng tăng; bộ máy các cơ quan chính quyền vẫn còn nhiều cồng kềnh, chức trách chồng chéo, ảnh hưởng đến việc quản lý tổng quát đối với kinh tế - xã hội; chế độ quản lý của chính quyền vẫn chưa hoàn thiện; chế độ quản lý dự toán công, khống chế vốn hành chính còn phải cải cách hơn nữa; cách thức quản lý và dịch vụ của chính quyền vẫn còn hạn chế, hiệu suất không cao, không thích ứng với yêu cầu cạnh tranh của nền kinh tế; công dân hoặc doanh nghiệp khi cần giải quyết thủ tục phải qua nhiều khâu, nhiều hạng mục và nhiều cấp xét duyệt; môi trường đầu tư và môi trường thương nghiệp cần cải thiện một cách cấp bách và cần thiết; tình trạng tham ô, tham nhũng của một số cán bộ trong bộ máy hành chính vẫn xảy ra do chưa có quy định cụ thể và có biện pháp phòng chống có hiệu quả, làm ảnh hưởng lòng tin trong quần chúng nhân dân.
3. Năm mục tiêu tổng thể của cách thể chế hành chính đến năm 2020
Để phát huy những thành tựu đã đạt được và hạn chế những tồn tại của cải cách nền hành chính hiện nay của Trung Quốc,ngày 27/2/2008, tại phiên họp toàn thể lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiệm kỳ 17 đã thông qua văn kiện về cải cách cơ chế quản lý hành chính, đề ra năm mục tiêu tổng thể của cách thể chế hành chính đến năm 2020 của Trung Quốc, đó là:
Thứ nhất, kiên trì cải cách nhằm thích ứng với nền kinh tế thị trường XHCN, tiến thêm một bước mới trong việc tinh giản cơ cấu biên chế chính quyền và chuyển giao quyền lực; phát huy tốt hơn nữa vai trò căn bản của thị trường trong việc phân phối các nguồn lực, vai trò của công dân và các tổ chức xã hội trong việc quản lý các sự vụ công cộng của xã hội, phát huy vai trò chủ thể cung cấp đa lĩnh vực trong dịch vụ công.
Thứ hai, thực hiện đầy đủ chức năng của chính quyền, hoàn thiện hệ thống dịch vụ công, xây dựng một chính phủ theo mô hình dịch vụ, xây dựng chế độ chi trong dịch vụ công.
Thứ ba, xúc tiến cải cách cơ cấu của Chính phủ, thực hiện chuyển đổi cơ bản cơ cấu tổ chức và biên chế nhân viên của Chính phủ theo hướng khoa học hóa, quy phạm hóa bằng cách nghiên cứu xây dựng, kiện toàn kết cấu quyền lực và cơ chế vận hành vừa chế ước lẫn nhau vừa phối hợp nhịp nhàng với nhau giữa quyền quyết sách, quyền chấp hành và quyền giám sát; hoàn thiện các quy định quản lý đối với biên chế trong cơ cấu và pháp luật pháp quy của tổ chức Chính phủ, đẩy nhanh xúc tiến quá trình pháp chế hóa đối với quản lý biên chế.
Thứ tư, tăng cường xây dựng chế độ và một nền hành chính tuân thủ pháp luật, trọng điểm là quy phạm hành vi lập pháp của Chính phủ thêm một bước, hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN mang màu sắc Trung Quốc, kiện toàn thể chế chấp pháp đối với hành chính, thực hiện chặt chẽ chế độ chấp pháp đối với hành chính, thiết thực nâng cao khả năng chấp hành của Chính phủ cũng như sự tin tưởng của công chúng đối với Chính phủ
Thứ năm, quy phạm mối quan hệ trung ương và địa phương: Phân chia một cách hợp lý chức trách và quyền hạn của các cấp chính quyền ở trung ương và địa phương, làm rõ trọng điểm quản lý và dịch vụ của chính quyền các cấp, nghiên cứu tìm ra con đường mới nhằm điều chỉnh một cách hợp lý kết cấu quyền lực Chính phủ theo ngành dọc.
4. Một số bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam
Qua phân tích nội dung, kết quả và phương hướng của CCHC của Trung Quốc, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm:
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng cộng sản Trung Quốc
Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra chủ trương cải cách mở cửa và là người lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm về chính trị để các mục tiêu cải cách thành công. Với thể chế chính trị một đảng lãnh đạo, Trung Quốc coi thành công của cải cách phải xuất phát từ sự lãnh đạo kiên quyết và thống nhất của Đảng. Để phát triển kinh tế trong điều kiện của một đất nước có xuất phát điểm thấp và là một quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc đã cho phép thí điểm và tập trung nguồn lực để xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm (Thẩm Quyến, Thiên Tân, Thượng Hải, Bắc Kinh, Trùng Khánh...), tạo đà phát triển lan tỏa sang các vùng khác.
Sau 30 năm thực hiện thành công chính sách phát triển kinh tế, từ năm 2005, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu chuyển sang tập trung vào chính sách phát triển xã hội hài hòa, tạo sự hài hòa về phát triển kinh tế và xã hội, khắc phục những vấn đề khoảng cách giàu - nghèo, lao động, việc làm và ô nhiễm môi trường. Nhà nước có chính sách quy định trách nhiệm của các vùng giàu, phát triển đối với các vùng nghèo, kém phát triển; xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội cơ bản như chính sách hỗ trợ về giáo dục, y tế, bảo hiểm cho người nghèo. Mục tiêu là xây dựng Nhà nước theo nguyên tắc "phục vụ", lấy lợi ích của người dân và cộng đồng làm cơ sở.
- Cải cách bắt đầu từ thay đổi nhận thức
Mục tiêu của cải cách là thay đổi nhận thức về vai trò và chức năng của Nhà nước trong bối cảnh phát triển mới, chứ không chỉ là nhằm giảm bộ máy, giảm số lượng công chức. Đây là một giải pháp tổng hợp từ nhận thức đến quan điểm và những quy tắc, phương thức tổ chức hoạt động nhằm chuyển đổi vai trò của Nhà nước, mà trước hết là tạo được nhận thức về sự thay đổi vai trò của Nhà nước, thích hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế và xã hội phát triển. Tạo sự đồng thuận, thống nhất trong quan điểm, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về chủ trương, đường lối cải cách mở cửa do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hoạt động của Nhà nước được thiết lập trên cơ sở phân biệt rõ bốn mối quan hệ: giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, giữa Chính phủ với thị trường, giữa Chính phủ với cơ quan sự nghiệp (cơ quan, tổ chức làm dịch vụ) và giữa Chính phủ với các đặc khu kinh tế. Nhà nước tập trung vào bốn loại chức năng cơ bản: điều tiết kinh tế, giám sát thị trường, quản lý xã hội và cung ứng dịch vụ công.
Mục tiêu của cải cách là lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp làm cơ sở cho những quyết sách của Nhà nước. Thủ tục hành chính phải công khai, minh bạch và thuận lợi.
- Biện pháp triển khai thực hiện cần tiến hành một cách kiên trì, lâu dài và đồng bộ, toàn diện trong toàn bộ hệ thống hành chính
Trung Quốc đã tiến hành cải cách từ năm 1979 và cải cách liên tục, kéo dài đến nay và tiếp tục trong thời gian tới; cải cách được tiến hành toàn diện tại các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó CCHC tại cơ quan hành pháp giữ vai quan trọng.
- Xây dựng bộ máy nhà nước đủ năng lực, có khả năng thích ứng với yêu cầu mới
Với quan điểm này, Trung Quốc chú trọng:
+ Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức về năng lực thực hành, kỹ năng giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Việc đưa ra các quyết sách phù hợp với từng địa phương, với từng hoàn cảnh và điều kiện, trên cơ sở các mục tiêu chung, đòi hỏi cán bộ, công chức phải có năng lực phù hợp và liên tục được tăng cường. Trung Quốc đã cử nhiều tổ chức, cá nhân đi nghiên cứu học tập CCHC tại nhiều nước trên thế giới để về vận dụng vào nước mình.
+ Quan tâm đến chính sách đối với cán bộ công chức, trước hết là chế độ lương và các điều kiện bảo đảm cho cán bộ công chức toàn tâm và trách nhiệm với công việc.
+ Hoàn thiện hệ thống thể chế trong nền công vụ, bảo đảm rõ ràng về thẩm quyền, tính trách nhiệm đối với từng vị trí, chức danh.
CCHC là yêu cầu tất yếu đối với mọi nền hành chính phát triển. Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã quyết tâm ban hành các quyết sách, lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công cuộc CCHC, xác định CCHC là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Đảng và Nhà nước với sự đồng thuận và ủng hộ của hệ thống chính trị và toàn thể người dân.
Quá trình cải cách của Trung Quốc đã tiến hành một cách liên tục, toàn diện và sâu rộng. Phạm vi cải cách được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Bộ máy hành chính nhà nước và số lượng cán bộ, công chức được tinh giản hơn, hiệu quả, hiệu lực nền hành chính được nâng cao, bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển của thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị và nền hành chính, đều đang tiến hành cải cách nhằm xây dựng một nền hành chính tuân thủ pháp luật, chuyên nghiệp và hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn cho doanh nghiệp và người dân.
Một số bài học rút ra qua quá trình cải cách của Trung Quốc về nâng cao nhận thức, chỉ đạo kiên quyết của Đảng, về triển khai thực hiện đồng bộ có giá trị không những đối với Trung Quốc mà còn có giá trị đối với các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Chúng ta có thể nghiên cứu, triển khai vận dụng vào CCHC tại Việt Nam theo hướng:
- Để cơ quan chỉ đạo và triển khai CCHC có thẩm quyền đặc biệt nhằm đạt kết quả cao trong công tác, có thể thành lập Cơ quan CCHC quốc gia, đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, các thành viên khác gồm có lãnh đạo Nhà nước, Trung ương Đảng, Quốc hội, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ…
-Cần tiến hành CCHC một cách tích cực, có trọng tâm, trọng điểm, trước mắt tập trung vào CCHC trong một số lĩnh vực nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng bền vững, giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, trong đó cần thực hiện ngay trên các lĩnh vực như:
+ Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, thủ tục thanh quyết toán trong đầu tư xây dựng cơ bản; ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn luật (có thể thuê chuyên gia, tư vấn nhằm giải quyết cơ bản và dứt điểm tình trạng luật có hiệu lực nhưng Nghị định, thông tư chưa ban hành);
+ Nghiên cứu, ban hành các cơ chế chính sách nhằm huy động vốn đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả đất công, đất triển khai dự án đường giao thông, thí điểm cho phép các địa phương một số thẩm quyền trong xử phạt hành chính
+ Cho phép các địa phương, các vùng kinh tế thực hiện nhiều mô hình thí điểm, sau đó rút kinh nghiệm, nhân rộng điển hình.
+ Cần có chế độ, chính sách đặc thù cho cán bộ làm công tác CCHC để họ có thể cống hiến và sáng tạo tốt hơn.

Xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc

Chuyên đề: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam

Năm: Năm 2019

Số: số 12 ;

Nội dung:

1.Mở đầu

Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa ra đời, mở ra kỷ nguyên xây dựng HĐH XHCN ở Trung Quốc. Bảy mươi năm qua, Trung Quốc không ngừng tìm tòi, xây dựng, phát triển, hoàn thiện mô hình, con đường xây dựng HĐH XHCN. Đồng thuận “Bắc Kinh” trở thành mô hình, lựa chọn con đường. Chế độ chính trị, kinh tế xã hội hình thành qua 70 năm đã đạt được những thành tựu to lớn, song hiện cũng đang đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, gợi mở một số bài học kinh nghiệm. Bài viết này phân tích quá trình xây dựng HĐH XHCN ở Trung Quốc trong 70 năm qua (1/10/1949-1/10/2019); dự báo trong thời gian tới; và bài học kinh nghiệm.

2.Quá trình xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc

2.1. Giai đoạn 1949-1978

Những năm 1949-1952, Trung Quốc bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng chính quyền mới, ổn định đời sống nhân dân sau chiến tranh. “Cương lĩnh chung” có vai trò như bản Hiến pháp lâm thời của CHND


Trung Hoa, định rõ thể chế chính trị, kinh tế và đường lối ngoại giao của Trung Quốc.

Năm 1953, Trung Quốc bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tiến hành cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, phong trào cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp phát triển rầm rộ. Từ năm 1949-1953 là giai đoạn “rập khuôn” mô hình phát triển của Liên Xô [8].

Những năm 1957-1965 là thời kỳ “Đại nhảy vọt”. Tại Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII, Mao Trạch Đông đã đề ra chủ trương “Đường lối chung”; “Dốc lòng hăng hái, tranh thủ vươn lên hàng đầu, sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ”, “Đại nhảy vọt” và công xã nhân dân. Trung Quốc muốn tìm kiếm con đường xây dựng CNXH theo cách của riêng mình, đẩy nhanh tốc độ phát triển nên đã phát động phong trào “Đại nhảy vọt”, bất chấp quy luật khách quan và trình độ phát triển của sức sản xuất đương thời.

Bảng 1: Cơ cấu GDP Trung Quốc năm 1949-1979 [33]

Trung quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế xã hội khi nào
Trung quốc bắt đầu thực hiện đường lối cải cách kinh tế xã hội khi nào

Những năm 1950 đã chứng kiến ​​một trong những thảm họa lớn nhất của con người trong Thế kỷ 20. Bước Nhảy vọt Vĩ đại là nỗ lực của Mao Trạch Đông nhằm nhanh chóng công nghiệp hóa nền kinh tế nông dân của Trung Quốc, nhưng nó đã thất bại và 10-40 triệu người đã chết trong giai đoạn 1959-1961 - nạn đói thảm khốc nhất trong lịch sử loài người.

Tiếp theo đó là sự gián đoạn kinh tế của Cách mạng Văn hóa trong những năm 1960, một chiến dịch mà Mao phát động để loại bỏ các đối thủ của Đảng Cộng sản, nhưng cuối cùng đã phá hủy phần lớn kết cấu xã hội của đất nước.

Bài 2: Nhà nước kiến tạo phát triển tại Việt Nam

Xây dựng “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt phục vụ người dân và doanh nghiệp” là một định hướng của Chính phủ đang nhận được sự đồng tình, ủng hộ của xã hội. Việc xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển hay Nhà nước kiến tạo phát triển rất phù hợp với việc xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.Mô hình “Nhà nước kiến tạo phát triển” có những ưu điểm gì?Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm (Donald Trump) vừa ký sắc lệnh về độc lập năng lượng, hạ thấp các tiêu chuẩn phát thải cho các nhà máy điện dùng than. Việc hạ thấp tiêu chuẩn này được tin là sẽ tạo điều kiện để mở rộng sản xuất điện than, nhờ đó mà ngành khai thác than cũng có thể mở rộng sản xuất. Hệ quả tiếp theo là công ăn việc làm mới sẽ được tạo ra cho những người dân Mỹ. Cách hành xử như vậy là rất đặc trưng cho mô hình nhà nước điều chỉnh. Nhà nước chỉ tác động lên các ngành công nghiệp bằng cách điều chỉnh chính sách, pháp luật chứ không trực tiếp xây dựng kế hoạch rồi đầu tư phát triển các ngành này. Và đây cũng là điểm khác biệt hết sức quan trọng giữa mô hình nhà nước điều chỉnh với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.Thực ra, thuật ngữ “nhà nước kiến tạo phát triển” được nhà nghiên cứu C.Giôn-xơn (Chalmers Johnson) đưa ra từ những năm 80 của thế kỷ trước khi ông nghiên cứu về sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Ông nhận thấy rằng trong sự phát triển thần kỳ ấy có vai trò rất quan trọng của nhà nước. Nhà nước Nhật Bản đã không chỉ tạo ra khuôn khổ cho sự phát triển mà còn định hướng và thúc đẩy sự phát triển đó. Sau này, ngoài Nhật Bản ra, Hàn Quốc, Trung Quốc và nhiều nước đang phát triển khác... đều được xem là những nhà nước kiến tạo phát triển. Đặc trưng hết sức cơ bản của mô hình nhà nước này là nhà nước trực tiếp đề ra một kế hoạch phát triển công nghiệp (với những tham vọng lớn) và đầu tư mạnh mẽ về cơ chế, chính sách và nhiều khuyến khích khác để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Theo các nhà nghiên cứu, đây là mô hình nhà nước nằm ở giữa nhà nước điều chỉnh (theo chủ thuyết thị trường tự do) và nhà nước kế hoạch hóa tập trung (theo mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống). Nhà nước kiến tạo phát triển không đứng ngoài thị trường, nhưng cũng không làm thay thị trường mà nhà nước kiến tạo phát triển chủ động can thiệp mạnh mẽ vào thị trường để thúc đẩy phát triển và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đã được đề ra. Để đạt được mức tăng trưởng GDP gấp đôi, một nhà nước điều chỉnh (như Hoa Kỳ) sẽ phải mất đến 50 năm, trong lúc đó một nhà nước kiến tạo phát triển (như Trung Quốc) chỉ mất 10 năm. Từ ví dụ về sắc lệnh độc lập năng lượng của Tổng thống Mỹ Đ.Trăm, chúng ta cũng sẽ thấy khá rõ những hạn chế của mô hình nhà nước điều chỉnh. Cụ thể, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc hạ thấp tiêu chuẩn phát thải chưa chắc đã khiến các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất điện than nhiều hơn; việc khai thác than vì vậy chưa chắc đã được mở rộng; công ăn việc làm mới cho người dân Mỹ chưa chắc đã được tạo ra.

Nhiều người cho rằng, nhà nước kiến tạo phát triển là mô hình nhà nước kết hợp được ưu điểm, đồng thời khắc phục được nhược điểm của cả hai mô hình nhà nước điều chỉnh và nhà nước kế hoạch hóa tập trung.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thấy rằng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển mạnh mẽ nhất trong những thập niên nửa cuối của thế kỷ trước. Sự hấp dẫn của mô hình này đã suy giảm ít nhiều khi cuộc khủng khoảng tài chính châu Á năm 1997 xảy ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều nước, đặc biệt các nước Đông Á (là những nước theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển). Nhiều học giả bắt đầu có cái nhìn phê phán hơn đối với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển và họ chỉ ra không ít những hạn chế của mô hình này. Ví dụ như sự hoạch định kế hoạch phát triển công nghiệp của nhà nước có thể dẫn đến hiện tượng dư thừa năng lực sản xuất quá lớn như ở Trung Quốc hay trong thời đại toàn cầu hóa, khi các tập đoàn xuyên quốc gia đang làm chủ việc hoạch định chính sách phát triển nhiều ngành công nghiệp thì nhà nước không dễ đi ngược lại với các tập đoàn này.

Tuy nhiên, nhà nước kiến tạo phát triển vẫn là một mô hình đầy tiềm năng, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, xã hội, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.

Kiến tạo phát triển chính là tạo ra những cải cách đột phá

Ở Việt Nam, thuật ngữ “Chính phủ kiến tạo phát triển” lần đầu tiên được đưa ra trong một bài viết của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào năm 2014. Thế nhưng, thuật ngữ này chỉ thật sự trở thành một định hướng của cải cách, từ khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đưa ra cam kết xây dựng một “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân” trong phát biểu nhậm chức của mình và nỗ lực đẩy mạnh thực hiện trong thời gian qua.

Nếu đặt câu hỏi: Các Thủ tướng của chúng ta có chịu ảnh hưởng của lý thuyết về mô hình nhà nước kiến tạo phát triển được các nhà nghiên cứu đưa ra từthế kỷ trước hay không? Câu trả lời có lẽ là không. Kể từ khi từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, về cơ bản chúng ta đã đi theo mô thức của một nhà nước kiến tạo phát triển. Cái mà các Thủ tướng của chúng ta quan tâm là thúc đẩy những cải cách để kiến tạo ra sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc cho đất nước.

Có lẽ, trong điều kiện của Việt Nam thì để kiến tạo phát triển Nhà nước cần phải hoạch định đường lối phát triển cho đất nước (đặc biệt là đường lối công nghiệp hóa và chương trình xóa đói giảm nghèo) và thúc đẩy việc hiện thực hóa đường lối đó. Thúc đẩy việc hiện thực hóa thì không có nghĩa là làm thay người dân và các doanh nghiệp mà tối thiểu phải làm được những việc sau đây:

Trước hết,Nhà nước phải tạo ra được hệ thống khuyến khích để các nguồn lực của xã hội được tập trung đầu tư cho các mục tiêu phát triển. Hệ thống khuyến khích đó có thể là chi tiêu công, là thuế, là tín dụng, là thương quyền... Ngoài ra, Nhà nước còn cần phải phát huy thế mạnh của nhà nước điều chỉnh là tạo ra khuôn khổ thể chế và mọi điều kiện cần thiết khác để từng người dân có thể dễ dàng làm ăn và mưu cầu hạnh phúc. Khi và chỉ khi hàng triệu người dân Việt Nam có điều kiện làm ăn dễ dàng, có năng lực làm chủ cuộc sống và sáng tạo tương lai thì sự giàu có và thịnh vượng bền lâu mới đến với đất nước ta. Và đó cũng mới chính là sự phát triển thực chất nhất. Điều quan trọng là phải xây dựng cho được những khuôn khổ thể chế cần thiết để cho công việc làm ăn của người dân ngày một dễ dàng hơn. Quan trọng nhất ở đây là quyền tự do kinh doanh, quyền tự do tài sản, quyền tự dokhế ước... phải được bảo đảm; sự minh bạch phải được tăng cường; các hợp đồng phải được tôn trọng và bảo vệ; các tranh chấp phải được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, một điều kiện không thể thiếu ở đây là việc bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô. Vì thiếu sự ổn định kinh tế vĩ mô, không doanh nghiệp cũng như một người dân nào có thể làm ăn dễ dàng được. Đây vì vậy là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ kiến tạo phát triển.

Hai là,Nhà nước cần tìm mọi cách để cung cấp các dịch vụ công chất lượng, giá rẻ cần thiết cho sự phát triển năng lực và việc làm ăn của các doanh nghiệp, của những người dân. Muốn làm được điều này, phải xây dựng được một bộ máy hành chính-công vụ hết sức chuyên nghiệp và hiệu quả. Bộ máy này phải được tuyển dụng, bổ nhiệm nghiêm ngặtdựatrên cơ sở của trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Ba là,nhà nước phải biết tạo ra cạnh tranh lành mạnh để tất cả mọi chủ thể trong xã hội đều phải vươn lên và để thu hút được người tài. Tiêu chí để cạnh tranh trong đời sống kinh tế là chất lượng hơn và giá rẻ hơn. Tiêu chí để cạnh tranh trong đời sống chính trị là tài giỏi hơn và đạo đức hơn. Trong đời sống kinh tế, thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và kiểm soát gắt gao những doanh nghiệp còn chiếm giữ vị thế độc quyền là rất quan trọng. Độc quyền không chỉ dẫn đến lạm quyền mà còn làm cho hoạt động kinh tế kém hiệu quả và xã hội kém năng động. Một cơ chế để người tài được tuyển chọn cũng hết sức quan trọng. Một phần của cơ chế này là áp đặt chế độ trách nhiệm rất rõ ràng, để những người đứng đầu bắt buộc phải chọn cho được người tài (không chọn được người tài không thể hoàn thành được công việc). Tất nhiên, chúng ta cũng phải trao quyền tuyển chọn cho những người đứng đầu này.

Với một khuôn khổ khái niệm như trên, Nhà nước ta quả thực có thể kiến tạo ra sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước. Vấn đềlà chúng ta cần sớm làmrõ khung khái niệm về nhà nước kiến tạo phát triển (chính phủ kiến tạo phát triển) mà chúng ta mong muốn xây dựng trên đất nước Việt Nam.

(còn nữa)

TSNGUYỄN SĨ DŨNG, TS NGUYỄN MINH PHONG,

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bài 3: Vai trò phù hợp cho doanh nghiệp nhà nước

Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn đang là trụ cột hàng đầu của nền kinh tế, đóng góp tới 28,8% GDP. Vấn đề sắp xếp, đổi mới DNNN, hay gần đây được sử dụng với thuật ngữ là tái cơ cấu DNNN đang được đặt ra. Tái cơ cấu là để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, đặt DNNN ở một vị trí phù hợp trong nền kinh tế, từ đó góp phần tạo ra động lực phát triển cho chính DNNN và cho các loại hình doanh nghiệp khác, với mục đích cuối cùng là thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển đất nước, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội.

DNNN mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước

Tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là một trong ba trụ cột chính của mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế đã được cụ thể hóa tại Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Một phương pháp quan trọng của việc tái cơ cấu là cổ phần hóa DNNN, rút bớt sự hiện diện của vốn Nhà nước tại những doanh nghiệp, những mảng lĩnh vực mà Nhà nước không cần phải nắm giữ, để cho thị trường tự điều tiết.

Với quan điểm đó việc cổ phần hóa đã được thực hiện quyết liệt trong những năm qua. Theobáo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp,năm 2001, Nhà nước có khoảng 6.000DNNN, đến năm 2011 chỉ còn 1.369 DNNN và đến hết tháng 10-2016 chỉ còn 718 DNNN. Nếu thời điểm năm 2001, DNNN xuất hiện ở hơn 60 ngành, lĩnh vực thì đến nay chỉ còn tập trung vào 19 ngành, lĩnh vực. Đại đa số DNNN có quy mô vừa và lớn.

Về đóng góp cho nền kinh tế, mặc dù số lượng chiếm tỷ lệ rất nhỏ về số lượng trong khu vực doanh nghiệp (khoảng 0,67%), nhưng DNNN vẫn là nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Tốp 5 doanh nghiệp đóng góp thuế nhiều nhất năm 2015 (năm 2016 chưa được công bố) thì đều là doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn Nhà nước chi phối, đó là: Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel),Tổng công ty Khí Việt Nam-Công ty CP, Tổng công ty Viễn thông MobiFone, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank). Nếu mở rộng ra tốp 10 doanh nghiệp đóng thuế hàng đầu năm 2015 thì cũng có tới 7 doanh nghiệp nhà nước, hoặc có vốn Nhà nước chi phối. DNNN cũng đang đóng góp lớn nhất vào GDP với tỷ lệ 28,8%, so với doanh nghiệp ngoài nhà nước là 11,8% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 17,9%.

Tất nhiên, ở chiều ngược lại, cũng phải thấy rằng, DNNN giữ một lượng vốn cùng khối lượng tài sản lớn trong nền kinh tế. Cụ thể, tổng vốn chủ sở hữu tại DNNN hiện là 1,234 triệu tỷ đồng; tổng tài sản là 3,105 triệu tỷ đồng. Nhiều ý kiến cho rằng, lượng tài sản khổng lồ DNNN nắm giữ chưa phát huy hết được hiệu quả. Trong đó có không ít doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản.

Nói như thế, để thấy rằng, lối suy nghĩ DNNN là yếu kém toàn diện, cần phải cắt bỏ sớm là không đúng đắn. Nhưng đồng thời, cũng phải nhìn nhận rằng, việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là điều tất yếu. Bởi xét trên diện rộng thì nền kinh tế thế giới đang ngày càng chuyển động nhanh hơn, đòi hỏi toàn bộ các thành tố cấu thành cũng phải chuyển động theo. Trên thế giới có những tập đoàn kinh tế tư nhân rất hùng vĩ bỗng trở thành con số 0 chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ vì không thay đổi, để thích ứng kịp sự thay đổi của nền kinh tế. Vì thế, nền kinh tế Việt Nam cũng phải luôn chủ động thay đổi, nhằm thích ứng, nâng cao hiệu quả. Trong đó, DNNN chính là một trong những trọng tâm phải được xem xét thay đổi. Tái cơ cấu DNNN quan hệ hữu cơ với việc tái cơ cấu đầu tư công và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

DNNN nên giữ vai trò gì trong nền kinh tế?

Liên quan đến tái cơ cấu DNNN, có hai vấn đề cần được giải quyết tốt: Thứ nhất là DNNN có vai trò gì, sẽ làm gì, xuất hiện ở những lĩnh vực nào? Thứ hai là làm thế nào để nâng cao được khả năng quản trị, từ đó nâng cao hiệu quả.

Về vấn đề thứ nhất là vai trò và lĩnh vực hoạt động của DNNN, trong văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN theo hướng: DNNN tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”. Còn các nguồn lực Nhà nước (tài nguyên đất đai, ngân sách Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...) cùng với các công cụ, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tiễn ở nước ta, khi nguồn lực Nhà nước cùng với các cơ chế, chính sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển ở lĩnh vực, địa bàn đó. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; còn doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Một vấn đề nữa cần lưu tâm, đó là từ xưa tới nay, DNNN thường phải thực hiện các nhiệm vụ công ích. Chính điều này đã gây ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả kinh tế của DNNN. Vì vậy, để đánh giá hiệu quả của một DNNN thường phải xét tới yếu tố “làm nhiệm vụ”, có nghĩa là dù không muốn thì doanh nghiệp vẫn phải thực hiện nhiệm vụ ấy, vì các doanh nghiệp ngoài nhà nước không làm, không muốn làm. Ví dụ như, các dự án ở thành phố lớn, nơi đông dân cư thì rất nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn làm, nhưng các dự án ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì ít doanh nghiệp muốn làm, thậm chí có những dự án không thể kêu gọi nổi vốn đầu tư xã hội. Vì vậy, bắt buộc phải có những DNNN để điều tiết những méo mó đó cho thị trường. Vừa qua, nếu không phải Viettel-một DNNN-đầu tư quyết liệt trong 6 tháng, thì không biết đến bao giờ Việt Nam mới có được một mạng viễn thông 4G hiện đại, phủ sóng toàn quốc.

DNNN còn là công cụ để Nhà nước trực tiếp điều tiết nền kinh tế. Ví dụ như, để giữ ổn định mặt bằng giá đầu vào cho các ngành sản xuất, trong nhiều năm qua, mặc dù thị trường có nhiều biến động, nhưng giá điện nhìn chung được giữ ổn định ở mức thấp. So với nhiều nước trong khu vực, giá điện Việt Nam thấp hơn. Cụ thể, giá bán lẻ điện hiện nay của Việt Nam là 1.622 đồng/kWh, tương đương 7,31 cent/kWh. Trong khi đó, Trung Quốc là 10,04 cent/kWh, Thái Lan 11,81 cent/kWh...

Có ý kiến chuyên gia cho rằng, nên có một lộ trình để giảm dần tỷ trọng của DNNN trong nền kinh tế, cụ thể là bằng thước đo GDP. Cụ thể là trong bức tranh GDP chung của đất nước, thì DNNN chỉ nên chiếm khoảng 15% GDP, còn lại doanh nghiệp ngoài nhà nước là 65% GDP và doanh nghiệp FDI khoảng 20% GDP. Nếu theo tỷ lệ này, so với mức đang đóng góp 28,8% GDP của đất nước, thì rõ ràng DNNN sẽ có sự thu hẹp lớn.

Thế nhưng, cũng về vấn đề này, có ý kiến lại cho rằng, điều cần quan tâm không phải là bắt buộc thành phần kinh tế nào có tỷ lệ trong GDP là bao nhiêu, mà là hiệu quả cho sự phát triển của đất nước. Theo quy luật về con số thì nếu doanh nghiệp có tỷ lệ đạt khoảng 30% thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến phần 70% còn lại. Nếu có tỷ lệ từ 10-30% thì sẽ có tác động nhưng không quyết định. Còn nếu nhỏ hơn 10% thì gần như không có tác động. Vì thế, đặt ra mục tiêu tỷ lệ đóng góp GDP khoảng bao nhiêu % có nghĩa là muốn loại hình doanh nghiệp nào giữ vai trò gì trong nền kinh tế.

Có ý kiến cho rằng, có thể chia DNNN thành 3 loại: Thứ nhất là DNNN làm nhiệm vụ công ích. Thứ hai là DNNN kinh doanh vốn (ví dụ nhưTổng công ty kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Thứ ba là DNNN thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quốc gia. Trong đó, loại doanh nghiệp thứ ba cần được Nhà nước nắm chặt và quản trị sâu.

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, nếu muốn quốc gia phát triển với tốc độ nhanh hơn thì cần phải có những công cụ, những cách thức quản lý nền kinh tế phù hợp, trong đó vai trò của những doanh nghiệp chiến lược là rất quan trọng, ở một số quốc gia thì đó là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ.

Tại Việt Nam, hiện nay, có những cái nhìn khá định kiến về DNNN, cho rằng cứ DNNN là yếu kém. Thế nhưng, Viettel là một DNNN đang có hiệu quả sản xuất kinh doanh đứng đầu nền kinh tế Việt Nam, nộp thuế nhiều nhất Việt Nam và cũng là tiên phong đầu tư ra nước ngoài. Trong đó, tại nhiều quốc gia, Viettel chiếm lĩnh thị trường chỉ trong một thời gian ngắn, lấn át cả những doanh nghiệp viễn thông lớn nhất thế giới. Thành công của Viettel minh chứng rằng, loại hình doanh nghiệp nào cũng có thể thành công, cái chính là phải có những lãnh đạo doanh nghiệp giỏi, có chiến lược phát triển tốt, khả năng thực thi tốt.

Phải chăng việc một số DNNN hoạt động kém hiệu quả trong thời gian qua là do được quá nhiều ưu đãi, khiến cho đánh mất khả năng cạnh tranh? DNNN phải chăng chỉ nên là những doanh nghiệp chuyên thực hiện những việc khó, những nhiệm vụ lớn mà doanh nghiệp bên ngoài chưa thể đảm đương được hoặc không muốn làm. Phải luôn luôn đặt DNNN trước những đòi hỏi rất cao, rất khắt khe.

Để nâng cao khả năng quản trị, từ đó nâng cao hiệu quả của bất cứ doanh nghiệp nào, trong đó có DNNN thì một yếu tố rất quan trọng là phải có được một đội ngũ nhân sự giỏi, tinh thông về ngành nghề kinh doanh cốt lõi và có khát vọng vươn lên. DNNN đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước (thông qua Đảng ủy và những người đại diện vốn Nhà nước tại doanh nghiệp), tồn tại vì lợi ích của quốc gia, nhưng đồng thời phải áp dụng các cơ chế, cách thức quản lý, công tác nhân sự tiên tiến nhất, giống như doanh nghiệp tư nhân, như thế thì mới nâng cao được hiệu quả hoạt động.

Khắc phục những hạn chế trong cổ phần hóa

Theo đánh giá của Ban chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, trong thời gian qua, các DNNN sau cổ phần hóa (CPH) hầu hết đều sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nộp ngân sách và thu nhập người lao động được nâng lên. Cụ thể, theo số liệu tổng hợp từ Bộ Tài chính, kết quả hoạt động năm 2015 của 350 doanh nghiệp sau CPH với trước khi CPH cho thấy, lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp này tăng 49%, nộp ngân sách tăng 27%, tổng tài sản tăng 39%, doanh thu tăng 29%, thu nhập bình quân người lao động tăng 33%. Tuy nhiên, cũng có những doanh nghiệp lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn hơn, lợi nhuận liên tục giảm, số nợ phải trả tăng nhưTập đoàn Cao su Việt Nam(lợi nhuận giảm từ 11.838 tỷ đồng năm 2011 xuống còn 2.200 tỷ đồng năm 2015; công nợ phải trả năm 2015 là 21.220 tỷ đồng trên vốn điều lệ là 35.210 tỷ đồng).

Thực tế thì loại hình doanh nghiệp nào cũng có doanh nghiệp mạnh, doanh nghiệp yếu. Các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần mạnh nhất trên thế giới cũng không tránh khỏi việc kinh doanh thua lỗ, phá sản. Vì thế, CPH không phải là đáp số chắc chắn để nâng cao hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, CPH là một xu thế đúng và tất yếu.

Vậy CPH mang lại điều gì để làm cho doanh nghiệp hiệu quả hơn, tốt hơn cho nền kinh tế? Đó là, CPH sẽ huy động được trí tuệ và vốn của xã hội vào doanh nghiệp, đồng thời sẽ tạo ra sức ép phải thành công. Sức ép hiệu quả ấy buộc doanh nghiệp phải chọn được nhân sự tốt, chọn được chiến lược kinh doanh đúng đắn, chọn được cách thức điều hành doanh nghiệp. Sức ép càng lớn thì những người đứng đầu doanh nghiệp càng buộc phải lựa chọn, sàng lọc để có bộ máy tốt nhất cho mình, nếu không chính bản thân họ cũng không thể tồn tại được.

Như vậy, có thể hiểu CPH là một phương thức để đổi mới doanh nghiệp; chứ CPH có lẽ không phải là mục tiêu. Vì vậy, có nhà kinh tế cho rằng, cần phải tính toán xem CPH như thế nào để ngân sách Nhà nước được lợi nhất và thị trường có thể hấp thu kịp. Đồng thời, cần phải khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong CPH như: Tạo ra thua lỗ rồi định giá doanh nghiệp thấp để những người đang điều hành và người nhà dễ dàng thâu tóm; mua doanh nghiệp chỉ vì khu đất vàng mà doanh nghiệp đang nắm giữ chứ không quan tâm phát triển ngành nghề lõi của doanh nghiệp...

Tóm lại, đánh giá, xác định đúng vị trí, vai trò của DNNN là một vấn đề rất quan trọng, là cơ sở để có chiến lược, chính sách, cơ chế phù hợp để nâng cao hiệu quả của DNNN, đóng góp tích cực hơn nữa cho sự phát triển của đất nước.

(còn nữa)

TS NGUYỄN SĨ DŨNG, TS NGUYỄN MINH PHONG, HOÀNG GIA MINH, HỒ QUANG PHƯƠNG

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay