Triết học là một học thuyết sử dụng một bộ lý luận hợp lý và có phương pháp về các khái niệm trừu tượng như sự tồn tại, sự thật và đạo đức dựa trên khoa học, các đặc điểm và nguyên nhân và tác động của những thứ tự nhiên như con người và vũ trụ. Show
Triết học xuất phát từ tiếng Hy Lạp φφλ và từ triết học Latinh do Pythagoras đặt ra ở Hy Lạp cổ đại có nghĩa là 'tình yêu cho trí tuệ' hay 'người bạn khôn ngoan'. Với thuật ngữ này, các lý thuyết và hệ thống tư tưởng được phát triển bởi một hoặc nhiều tác giả trong lĩnh vực này cũng được đặt tên. Triết học cũng là tinh thần, nguyên tắc và khái niệm chung về một vấn đề, một lý thuyết hoặc một tổ chức. Nó cũng đề cập đến một cách hiểu riêng về thế giới và cuộc sống. Triết học cũng có nghĩa là sự ôn hòa, sức mạnh hoặc sự thanh thản để đối mặt với một tình huống phức tạp. Theo nghĩa này, biểu thức 'lấy mọi thứ với triết học' có nghĩa là tương đối hóa một vấn đề. Nguồn gốc triết họcĐiêu khắc Aristotle.Có nhiều tranh cãi về nguồn gốc thực sự của triết học. Tuy nhiên, các tác giả khác nhau đồng ý rằng triết học phát triển ít nhiều song song ở cả phương Đông và phương Tây, nhưng quan niệm và phương pháp của họ rất khác nhau. Ở phương Tây, triết học được cho là đã phát sinh trong Thời đại Cổ đại (thời kỳ lịch sử trong đó các nền văn minh đầu tiên có phương pháp viết xuất hiện) và bao gồm cả triết học Hy Lạp và La Mã. Ở Hy Lạp, triết học bắt đầu với thời kỳ tiền Socrates, dẫn đầu bởi Thales of Miletus vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. C, và sẽ được theo sau bởi Socrates, Plato và Aristotle. Người Hy Lạp đang tìm kiếm một cách để hiểu thế giới, xa khỏi thần thoại và tôn giáo và tiếp xúc nhiều hơn với tư tưởng duy lý. Về phần mình, triết học La Mã nổi lên ở La Mã cổ đại, vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên. C, với các số mũ như Lucretius, Seneca, Cicero và Marco Aurelio. Đối với người La Mã, sự quan tâm chiếm ưu thế so với thực tế, vì vậy họ ưu tiên cho các vấn đề hàng ngày như chính trị và đạo đức. Ở phương Đông, triết học có hai khía cạnh chính: triết học Ấn Độ giáo, từ đó xuất phát nhiều hình thức tư tưởng, như Vedanta, Yoga và Phật giáo; và triết học Trung Quốc, bắt đầu từ triều đại nhà Thương với việc viết Kinh Dịch hoặc sách Đột biến vào năm 1200 trước Công nguyên. C, và sau này trở thành một trong những trụ cột của Nho giáo. Xem thêm:
Chi nhánh triết họcĐây là một số nhánh chính của triết học ngày nay:
Xem thêm:
Triết lý của một công tyTriết lý của một công ty là một tập hợp các nguyên tắc, giá trị và hướng dẫn chung cho hành động có thể bao gồm tầm nhìn và sứ mệnh của một tổ chức kinh doanh. Khái niệm văn hóa kinh doanh đôi khi cũng được bao gồm trong khái niệm này, mặc dù nó liên quan nhiều hơn đến phong tục và cách thức tiến hành hiện tại. Một trong những đặc điểm của nó là nó có sự ổn định nhất định theo thời gian, mặc dù triết lý của một công ty có thể được điều chỉnh hoặc sửa đổi. Ngoài ra, nó có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển hoạt động kinh doanh, vì triết lý hiện có tạo điều kiện cho các mục tiêu và hình thức hành động của một công ty. Triết lý của pháp luậtTriết lý của pháp luật là nghiên cứu các khái niệm đúng đắn của pháp luật theo quan điểm triết học. Nó liên quan đến các vấn đề như bản chất của Luật pháp và mối quan hệ của nó với đạo đức, khái niệm về sự thật, kiến thức và chuẩn mực pháp lý. Hai dòng chảy nổi bật trong Triết lý của Luật: học thuyết về Luật tự nhiên hoặc Luật tự nhiên và học thuyết về Luật tích cực hoặc Chủ nghĩa thực chứng pháp lý (trong đó một vị trí hoài nghi được phân biệt ở một mặt và mặt khác về phương pháp luận). Một số tác giả đã đào sâu vào Triết lý của Luật là John Finni, Hans Kelsen và Ronald Dworkin. Xem thêm:
Nhắc đến triết học người ta sẽ nhớ đến một ngành học đầy sâu sắc, ý nghĩa và vô cùng thú vị. Tuy nhiên đến nay triết học vẫn là một lĩnh vực khó đối với các bạn sinh viên và nhiều người nói chung. Triết học là gì? Bài viết dưới đây của GiaiNgo sẽ giải đáp xoay quanh chủ đề này. Cùng tìm hiểu nhé! Triết học là gì?Triết học là gì?Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Triết học có tên gọi tiếng Anh là Philosophy, từ này được xuất phát trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa dịch ra “tình yêu đối với sự thông thái”. Các thuật ngữ như là “triết học” hay “triết gia” ra đời là gắn với nhà tư tưởng người Hy Lạp Pythagoras. Ngành triết học là gì?Ngành triết học là một bộ môn nghiên cứu về các vấn đề chung, cơ bản về con người – thế giới quan cũng như vị trí của con người ở trong thế giới quan. Những vấn đề đó có kết nối lại với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ngôn ngữ. Dựa vào cách mà triết học giải quyết các vấn đề, người ta sẽ phân biệt được nó với những môn khoa học khác. Trong đó, nó đặc biệt thể hiện rõ tính phê phán, các phương pháp tiếp cận vào hệ thống chung nhất, sự phụ thuộc của nó sẽ dựa vào tính duy lý ở việc lập luận. Ngành triết học cũng là ngành học duy nhất thách thức mọi thứ, ngay cả chính nó. Chính vì thế, triết học được tách riêng khỏi khoa học, lịch sử, văn học và nghệ thuật. Hiện nay, triết học cũng là một ngành khoa học được đào tạo riêng biệt dành cho sinh viên. Triết học cũng là môn học bắt buộc đối với tất cả các sinh viên trong trường Đại học – Cao đẳng. Triết học Mác – Lenin là gì?Triết học Mác – Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Nó là khoa học về những quy luật phổ biến chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong Triết học Mác – Lenin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất. Triết học ra đời khi nào? Nguồn gốc của triết học là gì?Theo ghi chép của lịch sử, triết học ra đời từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN. Triết học xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây, tại các quốc gia văn minh cổ đại như Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở phương Tây, khái niệm triết học lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi φιλοσοφία (philosophia), mang nghĩa là “love of wisdom” (tình yêu đối với sự thông thái) bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại mang tên Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết học mang tính định hướng đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu là sự truy tìm bản chất của đối tượng; là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người. Còn tại Ấn Độ, triết học Ấn độ cổ đại có tên gọi là “darshanas”, có nghĩa là “chiêm ngưỡng”. Nó mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Nội dung của vấn đề cơ bản của triết học là gì?Sự đối lập trong tư duy giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm là vấn đề cơ bản của triết học. Gọi là vấn đề cơ bản bởi vì dựa trên việc giải quyết các vấn đề này sẽ làm cơ sở để giải quyết các vấn đề còn lại của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm các vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy; giữa vật chất và ý thức. Cụ thể là hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
Các vấn đề của triết học là gì?Đối với triết học, bản chất của nó là đưa ra những câu hỏi về bản thể, nhận thức, chân lý, đạo đức, thẩm mỹ. Những vấn đề đấy bao gồm:
Trong thời kỳ của triết học Hy Lạp cổ đại, 5 vấn đề trên tương ứng với lại 5 nhánh của triết học là Siêu hình học – logic – nhận thức luận – luân lý học – mỹ học. Nhưng đối tượng của triết học thì được mở rộng hơn đến vấn đề của chính trị học – vật lý học – địa chất học – sinh học – khí tượng học – thiên văn học. Từ thời Socrates, tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp bắt đầu phát triển theo hướng phân tích. Có nghĩa là đã có sự phân chia về vật thể thành những thành phần nhỏ để nghiên cứu. Với tư tưởng của triết học cổ Hy Lạp, hiện vẫn được xem là cơ sở của triết học phương Tây. Các học thuyết triết học là gì?Các học thuyết triết học bao gồm: Chủ nghĩa duy vậtChủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất. Về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâmChủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một cách tiếp cập tới hiểu biết về sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật. Cả hai đều thuộc lớp bản thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên. Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng:
Chủ nghĩa hiện thựcChủ nghĩa hiện thực đôi khi dùng để chỉ quan điểm trái ngược với chủ nghĩa lý tưởng của thế kỷ 18, cho rằng một số sự vật thực sự tồn tại bên ngoài đầu óc con người. Tuy nhiên, theo nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực là học thuyết cho rằng những khái niệm trừu trượng gắn với những danh từ chung toàn cầu như “con người” thực sự tồn tại. Chủ nghĩa duy danhTrái ngược với chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa duy danh cho rằng những danh từ trừu tượng hoặc toàn cầu chỉ là từ ngữ. Chúng biểu thị cho những trạng thái của trí não như ý tưởng, niềm tin hoặc dự định,… Chủ nghĩa duy lýChủ nghĩa duy lý nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa duy lý bắt đầu bằng những tiên đề không thể chối cãi rành rọt được, để từ đó, bằng các bước logic, diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có. Chủ nghĩa kinh nghiệmChủ nghĩa kinh nghiệm là một học thuyết dựa trên cơ sở kiến thức về năm giác quan của con người chúng ta. John Locke, một triết gia theo chủ nghĩa kinh nghiệm đầu tiên của Anh quốc, đưa ra quan điểm chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển trong tác phẩm An Essay Concerning Human Understanding vào năm 1689, phát triển một dạng tự nhiên chủ nghĩa và kinh nghiệm chủ nghĩa trên cơ sở các nguyên tắc gần như khoa học. Chủ nghĩa hoài nghiChủ nghĩa hoài nghi là một quan điểm triết học nghi vấn khả năng đạt được “bất kì” một loại kiến thức nào. Nó được phổ biến bởi Pyrrho, người tin rằng tất cả mọi thứ đều có thể bị nghi ngờ ngoại trừ “vẻ bề ngoài”. Chủ nghĩa hoài nghi hiểu theo cách như vậy không chỉ đơn thuần là việc sử dụng sự hoài nghi, mà là việc sử dụng tính hoài nghi cho một mục đích đặc biệt, là sự bình an của tâm hồn, hay là ataraxia. Chủ nghĩa hoài nghi là một thách thức cho chủ nghĩa giáo điều, hay là cho những người nghĩ rằng họ đã tìm ra sự thật. Chủ nghĩa lý tưởngChủ nghĩa lý tưởng là một học thuyết cho rằng hiện thực là hoàn toàn giới hạn bởi đầu óc của chúng ta. Các dạng của chủ nghĩa lý tưởng khá phổ biến trong triết học từ thế kỉ 18 đến những năm đầu của thế kỉ 20. Chủ nghĩa lý tưởng siêu việt (Transcendental Idealism); Chủ nghĩa lý tưởng Đức; Chủ nghĩa hiện tượng lục địa (Continental phenomenology). Chủ nghĩa thực dụngVào cuối thế kỷ 19, hai triết gia Mỹ, Charles Peirce và William James, đã đồng sáng lập ra học thuyết “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism). Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng chân lý của đức tin không nằm trong sự tương hợp của họ với thực tại mà nằm ở sự hữu ích và hiệu quả. Hiện tượng học và thuyên thích họcTrong phần thứ hai của tác phẩm hai tập của Edmund Husserl, cuốn Logical Investigations (Nghiên cứu về lý luận), ông phát triển một kĩ thuật về mô tả hiện tượng học. Với mục đích chứng minh rằng các đánh giá khách quan thật sự là dựa trên kinh nghiệm nhận thức. Tuy không dựa trên kinh nghiệm ban đầu của mỗi cá nhân, nhưng dựa vào các bản chất quan trọng đối với bất kì kinh nghiệm cùng loại đang được xét đến. Chủ nghĩa hiện sinhNhững triết gia của thế kỉ 19 như là Soren Kierkegaard và Friedrich Nietzsche được xem là cha đẻ của thuyết hiện sinh. Kierkegaard cho rằng “sự thật là chủ quan”; biện luận rằng điều quan trọng nhất đối với một người thực sự là những câu hỏi liên quan đến những mối quan hệ cá nhân bên trong người đó với sự tồn tại. Triết học phân tíchVào năm 1921, Ludwig Wittgenstein xuất bản cuốn sách Tractatus Logico-Philosophicus, đưa ra một hệ thống logic vững chắc về các vấn đề của ngôn ngữ và triết học. Vào thời gian đó, ông đã hiểu rằng đa số các vấn đề của triết học chỉ là những bài toán đố của ngôn ngữ, mà có thể giải thích được dễ dàng bởi các suy nghĩ rõ ràng. Vai trò của triết học là gì?Vai trò của triết học trong đời sống xã hộiVai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của triết học. Triết học có nhiều chức năng, nhưng quan trọng nhất chính là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. Thế giới quan: Thế giới quan có vai trò quan trọng đối với đời sống mỗi con người, mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng. Nó giúp con người nhận thức đúng được sự vật, sự việc. Hoạt động của con người luôn bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Thế giới quan đóng vai trò là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Từ thế giới quan đúng đắn, con người sẽ có khả năng nhận thức, quan sát, nhìn nhận mọi vấn đề trong thế giới xung quanh. Thế giới quan cũng giúp con người định hướng thái độ và cách thức hoạt động sinh sống của mình. Phương pháp luận: Phương pháp luận là hệ thống những quy tắc được rút ra từ quy luật thế giới khách quan. Phương pháp luận chính là cơ sở vô cùng quan trọng cho phương pháp nghiên cứu khoa học. Việc hoàn thiện phương pháp luận sẽ giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu tìm ra những cách tiếp cận mới trong những lĩnh vực mới. Từ đó xác định được hướng đi đúng đắn, giúp nâng cấp và cải cách thế giới. Phương pháp luận được chia làm 3 cấp bậc chính:
Vai trò của triết học trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nayTrong nền kinh tế toàn cầu hóa, bên cạnh giải quyết những vấn đề muôn thuở, triết học còn giúp cho con người tìm ra lời giải đối với những vấn đề hoàn toàn mới, phát sinh trong quá trình toàn cầu hóa. Triết học giúp con người nhìn nhận đúng đắn về thế giới quan. Nhờ vào triết học, con người còn có khả năng đánh giá những biến động đang diễn ra, gợi mở hướng giải quyết cho vấn đề đang gặp phải trong bối cảnh toàn cầu hóa. Dù là trong quá khứ hay ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, triết học vẫn giữ nguyên vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại. Bài viết trên của GiaiNgo đã giải đáp những thông tin liên quan đến chủ đề Triết học là gì. Hy vọng sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về triết học và học tập tốt bộ môn này. Chúc bạn thành công! |