Thiên chúa giáo còn có tên gọi khác là gì

Có rất nhiều người gọi đạo Thiên Chúa, đạo Chúa hay đạo Công Giáo. Mọi người vẫn nghĩ đó đều là một. Nhưng thật ra đó là một sự nhầm lẫn. Vì vậy cần tìm hiểu rõ hơn về đạo Công Giáo và những điều liên quan. Bài viết sau đây sẽ là lời giải đáp cho thắc mắc trên mà mọi người vẫn luôn muốn biết.

Xem thêm: 

Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo?

Thực tế, nhiều người vẫn vô tình nhầm tưởng Đạo Thiên Chúa là Đạo Công Giáo. Đạo Công Giáo (Catholicism) là Đạo Thánh mà chính Chúa Kitô đã rao giảng và thiết lập ra Giáo Hội trên nền tảng Tông Đồ như là một phương tiện để loan truyền và mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Đạo Công Giáo là đạo cứu rỗi để mọi người đón nhận cuộc sống hạnh phúc đời đời bên Thiên Chúa trong Vương Quốc tình yêu của Người sau khi hoàn tất hành trình con người trên trần thế.

Thiên chúa giáo còn có tên gọi khác là gì

Đạo Công Giáo do Chúa Kitô rao giảng và thiết lập ra

Nên xét về mặt từ ngữ thì đạo Thiên Chúa bao hàm khá rộng lớn. Trong khi các tín đồ Thiên Chúa giáo lại được phân nhỏ trong các Giáo Hội hay Đạo có các danh xưng khác nhau.

1. Do Thái Giáo (Judaism)

Đạo Do Thái thờ Một Thiên Chúa Yahweh, là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Israel (Jacob) của dân Do Thái, người đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách cai trị của Ai Cập. Đạo Do Thái không có Thiên Chúa Ba Ngôi nên Kinh Thánh của họ chỉ có phần Cựu Ước thôi.

Người Do Thái giáo chỉ tụ tập trong các Hội trường để đọc Kinh Thánh chứ không có Thánh Lễ  vào các Chúa Nhật hay Nhà Thờ. Và ngày họ đọc kinh là ngày thứ bảy hằng tuần hay gọi là ngày Sabbat.

2. Đạo Công Giáo La Mã (Roman Catholicism)

Đạo Công Giáo La Mã chính là Kitô Giáo. Đạo thờ Thiên Chúa Ba Ngôi gồm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy là Ba ngôi vị riêng biệt nhưng cùng một Thiên Chúa duy nhất đồng bản thể và uy quyền trong Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi.

Kinh thánh của Giáo Hội Công Giáo có phần Cựu Ước và Tân Ước dạy các tín hữu đời sống đức tin theo lời Chúa. Giáo Hội Công Giáo có sự quản lý rất nề nếp như một đất nước thu nhỏ với người đại diện cao nhất là Đức Giáo Hoàng.

3. Đạo Tin Lành (Protestanism)

Đây là một nhánh của Kitô Giáo đã ly khai khỏi Công Giáo sau cuộc cải cách tôn giáo khởi xướng bởi Martin Luther tại Đức năm 1517. Đạo Tin Lành cũng tôn thờ Thiên Chúa và tin Chúa Kitô là Cứu Chúa và cùng sử dụng Kinh Thánh như Đạo Công Giáo.

Nhưng Đạo Tin Lành có những điểm khác biệt rõ ràng so với Đạo Công Giáo như cách giải thích của họ về Kinh Thánh, không công nhận vai trò của Đức Giáo Hoàng và không có các bí tích như Công Giáo.

Tổ chức Giáo Hội Công Giáo được sắp xếp rất quy củ

Phải nói tổ chức Giáo Hội Công Giáo giống như một đất nước thu nhỏ với các phân tầng và cách sắp xếp quản lý rất hay. Cụ thể như sau:

1. Giáo phẩm

Hàng Giáo phẩm sẽ phân thành 5 cấp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn gồm: Linh Mục, Giám Mục, Tổng Giám Mục, Hồng Y và Giáo Hoàng. Mỗi phân cấp sẽ có nhiệm vụ và sắc phục riêng. Trong đó, Đức Giáo Hoàng là người đại diện cao nhất cho toàn thể giáo dân Đạo Công Giáo trên toàn thế giới.

Thiên chúa giáo còn có tên gọi khác là gì

Đức Giáo Hoàng là người đại diện cao nhất của Giáo Hội Công Giáo (Nguồn ảnh: Pacific Press)

2. Tổ chức Giáo hội

Giáo Hội Công Giáo được tổ chức như một bộ máy nhà nước với hệ thống từ địa phương đến trung ương, từ cá nhân đến tập thể và từ tập thể nhỏ đến tổng thể lớn. Nhỏ nhất là các tín đồ hay còn gọi là Giáo hữu, Kitô hữu, giáo dân là những người đã lãnh bí tích rửa tội của Giáo hội. Các giáo dân sẽ tập hợp thành Họ Đạo. Nhiều Họ Đạo tạo thành Giáo Xứ, đứng đầu là Linh Mục. Nhiều Giáo Xứ tạo thành Giáo Hạt, đứng đầu là Linh Mục Hạt Trưởng. Các Giáo Hạt tụ lại thành Giáo Phận, đứng đầu bởi Giám Mục. Cao hơn là Tổng Giáo Phận, quản lý bởi Tổng Giám Mục thường là Tổng Giáo Phận của 1 tỉnh. Cấp quốc gia là Giáo Hội Quốc Gia và Hội Đồng Giám Mục. Trên toàn thế giới gọi là Giáo Hội Hoàn Vũ đứng đầu bởi Đức Giáo Hoàng. Và mỗi cấp đều có những quy tắc riêng.

Các ngày lễ quan trọng của Đạo Công Giáo

1. Lễ Phục Sinh

Mùa Phục Sinh thường rơi vào tháng 4 hằng năm. Đây là ngày kỷ niệm ngôi hai Thiên Chúa sống lại sau 3 ngày bị đóng đinh vào thập giá vì chuộc tội cho người dân. Đây là ngày lễ quan trọng và là một mùa chay lớn của người Công Giáo hằng năm.

Thiên chúa giáo còn có tên gọi khác là gì

Lễ Phục Sinh kỷ niệm ngày Chúa sống lại sau khi bị đóng đinh trên thập giá (Nguồn ảnh: Alamy stock photo)

2. Lễ Chúa Lên Trời

Theo lời Tiên Tri thì sau khi Chúa Giêsu sống lại rồi người sẽ lên trời 40 ngày sau. Trong Tân Ước cũng có ghi lại, sau khi sống lại, Chúa Giêsu ở lại cùng các môn đệ 40 ngày rồi mới kết thúc sự hiện diện của mình nơi trần thế. Lễ Chúa Lên Trời thường rơi vào ngày Thứ Năm nhưng các Giáo Hội cũng có thể dời vào Chúa Nhật kế tiếp để mọi người tiện tham dự.

3. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống

Sau khi Chúa Giêsu lên trời thì Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các thánh Tông đồ và Hội Thánh mới thành lập. Đây cũng được xem là một lễ trọng của người Công Giáo và được cử hành vào ngày thứ năm mươi của mùa Phục Sinh. Một số nơi còn gọi đây là lễ Hiện Xuống.

4. Lễ Đức Mẹ Lên Trời

Bên cạnh Đức Chúa Giêsu thì Đức Mẹ Maria cũng được nhiều người tin yêu. Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ xưa nhất trong các ngày lễ dành cho Đức Mẹ. Lễ rơi vào ngày 15 tháng 8 hằng năm. Một số nơi cũng gọi lễ này là lễ Đức Mẹ an giấc. Và tuỳ mỗi nơi có thể có thêm chuộc lễ và ngày tạ ơn Đức Mẹ.

5. Lễ các Thánh

Lễ các Thánh được tổ chức vào ngày 1 tháng 11 hằng năm là ngày lễ trọng nhằm tôn vinh các vị Thánh trên Thiên đàng. Đây cũng là dịp để giáo dân học theo các Thánh để nhân loại luôn nhớ đến các việc lành phúc đức, rao giảng tin mừng, sống đẹp lòng Chúa.

6. Lễ Giáng Sinh

Lễ Giáng Sinh hay Noel là ngày lễ trọng cuối cùng trong năm của đạo Công Giáo. Giáng sinh nhằm ngày 25 tháng 12 hằng năm nhưng từ trước đó một tháng người dân đã chuẩn bị trang trí để đón mừng ngày Chúa Giêsu ra đời. Không chỉ các nhà thờ mà ngay cả nhà giáo dân và khu vực xóm đạo cũng giăng đèn, làm hang đá hết sức lộng lẫy thu hút sự chú ý của mọi người cả trong và ngoài đạo.

Cũng giống như bao Đạo giáo khác thì Đạo Công Giáo cũng muốn dạy những điều tốt đẹp cho giáo dân của mình. Ngoài ra niềm tin tín ngưỡng cũng giúp giáo dân vượt qua được những thời điểm khó khăn. Mong rằng chút kiến thức về Đạo Công Giáo đã giúp mọi người hiểu hơn về tôn giáo linh thiêng này.

Nếu có nhu cầu tìm hiểu nhiều hơn về các vật phẩm thờ cúng, mộ đá công giáo, mộ đá granite thường dùng cho người công giáo,  Quý khách có thể liên hệ với:

Đá Mỹ Nghệ Thăng Long

Thiên chúa giáo còn có tên gọi khác là gì
Các tín đồ Islam gọi Thiên Chúa là Allah, các tín đồ Do thái gọi Thiên Chúa là Giavê; còn Thiên Chúa của Kitô giáo tên là gì? Phải chăng là Chúa Ba Ngôi?

Thật không dễ trả lời cho các câu hỏi vừa nêu, bởi vì có ít là hai điều khó khăn: thứ nhất, Thiên Chúa không có tên họ kiểu như loài người; thứ hai, mỗi dân tộc đặt tên cho Thiên Chúa theo ngôn ngữ của mình, cho nên danh xưng của Thiên Chúa không tuỳ thuộc vào tôn giáo cho bằng vào văn hoá. Lý do thứ nhất xem ra đơn giản: trên mặt đất này, có cả tỉ con người, vì thế cần phải đặt tên cho mỗi người để xác định căn cước cá nhân và để phân biệt với những người khác; còn Thiên Chúa thì chỉ có một, cho nên không sợ lẫn lộn. Tuy nhiên, trong cuộc giao tiếp giữa con người với nhau, chúng ta cần phải đặt tên cho mỗi đối thể để khỏi bị hiểu lầm hoặc lạc đề; vì thế chúng ta tìm cách đặt cho Thiên Chúa một tên. Thế nhưng tên này tuỳ thuộc vào ngôn ngữ của mỗi dân tộc, chứ không phải là tên của chính Thiên Chúa. Tôi xin lấy một thí dụ: tên riêng của ông Tổng thống Hoa kỳ là George Bush, và tất cả các nước trên thế giới đều cố gắng đọc cho đúng tên ông ta; tuy nhiên, chúng ta gọi ông là “tổng thống” trong tiếng Việt, chứ đâu phải theo nguyên gốc tiếng Anh là President. Như vừa nói, Thiên Chúa không có tên riêng, nhưng mỗi dân tộc gọi ngài theo ngôn ngữ của mình. Vì thế nhiều danh xưng dành cho Thiên Chúa tuỳ thuộc vào văn hoá chứ không tuỳ thuộc vào tôn giáo. Nói cụ thể, Allah không phải là tên riêng của Thiên Chúa dựa theo đạo Islam, nhưng là danh từ thuộc vùng ngôn ngữ ả-rập. Vì thế các tín đồ Kitô giáo nói tiếng Ả-rập cũng kêu cầu Allah trong lời nguyện. Một cách tương tự như vậy, trong tiếng Việt, các kinh nguyện gần đây bắt đầu với lời xưng hô “Lạy Thiên Chúa”; nhưng hồi đầu thế kỷ XX thì bắt đầu bằng lời “Lạy Đức Chúa Trời”. “Thiên Chúa” và “Đức Chúa Trời” cũng vậy thôi, và chỉ được sử dụng ở trong tiếng Việt, chứ ra nước ngoài thì hết xài. Hơn thế nữa, cần phải nói rằng ở trên đất Việt Nam có 54 dân tộc, vì thế đến 54 cách xưng hô Thiên Chúa, chứ không hẳn là 54 tôn giáo.

“Thiên Chúa” có nghĩa là Chúa Trời, còn “Allah” có nghĩa là gì?

Lẽ ra trước tiên phải hỏi “Chúa Trời” có nghĩa là gì đã; rồi sau đó, mới bước sang ý nghĩa của từ Allah. Chúng ta sẽ trở lại với danh xưng “Chúa Trời” khi bàn đến các danh xưng được sử dụng trong từ ngữ Hán Việt; bây giờ chúng ta nói đến Allah trước. Đây là một từ ngữ phổ thông trong tiếng Ả-rập để gọi các vị thần linh, chứ không phải là tên riêng của vị thần nào, tương đương với danh từ El trong tiếng Do thái được sử dụng trong Kinh thánh Cựu ước. Cũng nên biết rằng tuy danh xưng Allah được dùng 2697 lần trong sách Coran (tức là Sách thánh của Islam), nhưng mà theo truyền thống của đạo Islam, thì Thiên Chúa có đến 99 tên. Các nhà phê bình cho rằng nên hiểu 99 tên như là 99 ưu phẩm của Thiên Chúa, trong đó ưu phẩm được nhắc đến nhiều hơn cả là Al-Rahman (Khoan nhân) và Al-Rahim (hay thương xót). Dù sao, từ Allah ghép bởi hai từ al-ilah, một từ ngữ phổ quát trong vùng Trung đông để ám chỉ các thần linh, tương đương với danh từ El, eloah trong tiếng Do thái. Nói cách khác, không có gì là riêng tư độc đáo của đạo Islam hay đạo Do thái trong danh xưng dành cho Thiên Chúa. Hơn thế nữa, vào thời xa xưa, El là một từ ngữ rất chung chung, ám chỉ bất cứ nhân vật nào (tương tự trong tiếng Việt: “kẻ”, “vị”, “đấng”, “đức”). Có lẽ vì thế mà vào thời các tổ phụ, người ta phải kèm thêm một thuộc từ để xác định bản tính của Thiên Chúa, chẳng hạn như như El- elyon: (Đấng Tối cao), El Shaddai (Đấng Toàn năng), El-Hai (Đấng hằng sống). Mặt khác, các học giả còn lưu ý rằng đôi khi từ el hay elohim cũng được dùng để ám chỉ các thiên sứ (thí dụ Thánh vịnh 139,1; 29,1; Gióp 1,6). Dù sao, ngoài những danh xưng chung cho vùng văn hóa địa phương, người Do thái xác tín rằng Thiên Chúa đã mặc khải riêng cho họ một tên riêng của ngài là Giavê

Như vậy, “El” hay “Allah” là tên chung cho các thần linh; còn “Giavê” mới đúng là tên riêng của Thiên Chúa phải không?

Nếu chỉ dựa đoạn văn của sách Xuất hành (6,2-6), thì phải trả lời rằng: “đúng thế”. Đoạn văn viết như thế này: “Thiên Chúa phán với ông Môsê: Ta là Giavê. Ta từng hiện ra cho Abraham, Isaac, Giacop như El Shaddai, nhưng ta không cho họ biết danh hiệu Giavê”. Tuy nhiên, ngày nay, các học giả đã đặt lại vấn đề, bởi vì xem ra người Do thái đã biết đến danh xưng Giavê từ trước ông Môsê rồi, không những dựa theo đoạn văn Sáng thế chương 4 câu 26 (nghĩa là vào thời con cái ông Abel), nhưng theo sách Xuất hành (6,20) ngay cả bà thân mẫu của ông Môsê cũng đã mang tên là Jokebed (vinh quang của Giavê). Mặt khác, Giavê không phải là bí danh hay ám số gì hết: Giavê có nghĩa là “Đấng hằng hữu”. Dù sao, tên gọi Thiên Chúa không quan trọng cho bằng niềm thâm tín về bản tính của Ngài. Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê về mối tương quan mới dành cho dân Do thái: Ngài đã thiết lập một giao ước với họ, họ là một dân được tuyển chọn. Đối lại, người Do thái không được thờ lạy thần linh nào nữa hết, theo như đoạn văn của sách Đệ-nhị-luật (6,4-5) quen gọi là kinh Shema: “Hãy nghe đây, Israel. Giavê Chúa của chúng ta, chỉ có một. Ngươi hãy yêu mến Giavê Chúa của ngươi hết tâm lòng, hết sức lực”.

Như vậy là từ thời ông Môsê trở đi, người Do thái cầu khẩn Thiên Chúa là “lạy đức Giavê” phải không?

Các tác giả không nhất trí trong vấn đề này. Có ý kiến cho rằng tiếp theo việc mặc khải danh thánh Giavê, thì người Do thái đã kêu cầu danh xưng được coi như là tên riêng của Thiên Chúa. Có ý kiến khác cho rằng vì danh Thiên Chúa mang tính cách linh thiêng, cho nên các tín đồ không dám đụng tới nữa. Giới răn thứ hai đã chẳng nghiêm cấm “chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ” đấy ư? Dù sao, thì từ thời đầu Công nguyên, các tín đồ không dám đọc tên Giavê nữa, và thay bằng tiếng Adonai. Adonai là một danh từ phổ quát, có nghĩa là “chủ, chúa, lãnh tụ” (đúng ra ở số nhiều, bởi vì số ít là Adoni). Danh từ này được dịch sang tiếng Hy-lạp là Kyrios, và tiếng La-tinh là Dominus. Mặt khác, như ta thấy trong các thánh vịnh, các người Do thái kêu cầu Thiên Chúa với nhiều danh xưng khác nhau: Lạy Đấng Thánh, Lạy Đấng Toàn năng, Lạy Đấng Tín Trung, Lạy Đấng Đáng Chúc tụng, vv.

Dân Do thái tin rằng Thiên Chúa mặc khải danh của Người là Giavê, nhưng họ kêu cầu ngài là Adonai. Tân ước có thêm điều gì mới về danh xưng của Thiên Chúa không?

Chúng ta nên phân biệt hai khía cạnh: ngôn ngữ và nội dung. Về ngôn ngữ, trong Cựu ước, Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, và vấn đề danh xưng có thể khảo sát dựa theo ngôn ngữ của dân tộc Do thái. Bước sang Tân ước, ta thấy rằng tuy Đức Giêsu (đọc theo nguyên gốc Do thái là Giơ-ho-sua có nghĩa là: Giavê cứu chữa) dùng tiếng Do thái, nhưng bản văn Phúc âm lại được viết bằng tiếng Hy-lạp. Vì vậy các từ ngữ của Cựu ước được chuyển dịch từ tiếng Do thái sang tiếng Hy-lạp. Đến khi Tin mừng được truyền bá sang dân tộc khác, thì các từ ngữ sử dụng còn phức tạp hơn nữa. Nói cách vắn tắt, hai từ ngữ Do thái vốn được coi như là riêng của đạo Do thái Elohim và Giavê (hoặc Adonai) thì được dịch sang tiếng Hy-lạp là Theos và Kyrios, và tiếng La-tinh là Deus và Dominus: những danh từ này vốn đã được sử dụng để chỉ các thần linh nói chung, chứ không riêng của một tôn giáo nào. Điều này cũng xảy ra trong các ngôn ngữ châu Âu sau này, thí dụ tiếng Pháp là Dieu và Seigneur, tiếng Anh là God và Lord. Nên lưu ý là từ deus tiếng La-tinh, dieu tiếng Pháp và god tiếng Anh được dùng để gọi các thần; vì thế mà tuy cùng là một từ ngữ, nhưng khi chuyển sang tiếng Việt thì có lúc phải dịch ra “thần” (hoặc thần linh), có lúc được dịch là “Thiên Chúa”; còn danh từ Dominus, Seigneur, Lord thì được dùng trong ngôn ngữ hằng ngày để gọi các “ông”, hoặc “ông hoàng, ông chủ”.

Đó là nói vấn đề dịch thuật ngôn ngữ, còn vấn đề nội dung thì sao?

Khi nói đến nội dung thì chúng ta gặp thấy nhiều điều mới, mà giới hạn thời giờ không cho phép tôi đi sâu. Tôi chỉ ghi nhận ba điều. Thứ nhất, thánh Phaolô dùng danh từ Theos (Deus, Dieu, God) cho Chúa Cha, và danh từ Kyrios (Dominus, Seigneur, Lord) cho đức Kitô; thánh Gioan thì gọi đức Kitô bằng cả hai danh xưng đó, cụ thể là trong lời tuyên xưng của tông đồ Tôma sau khi chạm đến Chúa Kitô phục sinh. Nhận xét thứ hai, nhiều học giả cho rằng danh xưng mới để ám chỉ Thiên Chúa trong Tân ước là “Cha”, và đức Giêsu đã dạy chúng ta hãy dùng từ này khi cầu nguyện, và Người đã nêu gương trước. Tuy nhiên, trong phụng vụ, các lời nguyện chính thức kêu cầu Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu (và được hiểu về Chúa Cha). Nhận xét thứ ba, các nhà thần học thú nhận rằng các ngôn ngữ của con người đều mang tính cách giới hạn, không thể nào diễn tả được bản tính của Thiên Chúa, như sách Đạo đức kinh đã viết: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh phi thường danh: đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cữu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến”.

Thế trong tiếng Việt, Thiên Chúa có nghĩa là gì?

Đây là một danh từ Hán Việt, Thiên Chúa (hoặc Đức Chúa Trời) không chỉ có nghĩa “Chúa trên trời” mà còn nghĩa là “Chúa cả trời đất” (hay Chủ tể càn khôn) nữa. Trong lịch sử truyền giáo, đã có nhiều cuộc tranh luận xem có nên dùng từ “Thượng đế” hay “Thiên chủ” không. Nhưng mà trong bối cảnh lịch sử văn hoá hồi thế kỷ XVII-XVIII, vì sợ gây hiểu lầm giữa quan niệm Thiên Chúa của Kitô giáo với Thượng đế của các tôn giáo cổ truyền, cho nên người ta tránh dùng từ “Thượng đế”, và thậm chí có lúc để nguyên tiếng La-tinh “Chúa Dêu” (Deus). Dù sao, nên lưu ý là danh xưng Chúa Trời có nghĩa là đấng dựng nên trời đất, trong khi quan niệm cổ điển “Trời” có khi được hiểu là đấng Chủ tể (ông trời), nhưng đôi khi được hiểu về thiên nhiên mà thôi (trời mưa, trời nắng thôi)

(Giuse Phan Tấn Thành, OP.)

114.864864865135.135135135250