Sự khác nhau giữa yếu tố nguy hiểm và yếu tố có hại là gì?

Giới thiệu về cuốn sách này

Show

Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

Sau khi nhận diện, đánh giá các yếu tố có hại, người sử dụng lao động tiếp tục xác định mục tiêu, biện pháp phòng chống các yếu tố nguy hiểm, độc hại. Vậy, xác định mục tiêu, biện pháp phòng chống các yếu tố nguy hiểm, độc hại như thế nào? Sau đây Luật Hoàng Anh xin trình bày về vấn đề này.

1. Thứ tự ưu tiên các mục tiêu, biện pháp phòng chống các yếu tố nguy hiểm, độc hại

Theo Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 39/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 của Chính phủ, người sử dụng lao động xác định mục tiêu, biện pháp phù hợp để phòng chống tác hại của các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc, theo thứ tự ưu tiên sau đây:

1.1. Loại trừ các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại ngay từ khâu thiết kế nhà xưởng, lựa chọn công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu

Các mục tiêu, biện pháp nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại ngay từ các khâu đầu tiên của hoạt động sản xuất. Theo đó nếu các biện pháp này thực hiện thành công thì có thể giảm thiểu tối đa, thậm chí triệt tiêu hoàn toàn một số yếu tố nguy hiểm, có hại. Do đó, các mục tiêu, biện pháp này phải được ưu tiên hơn.

Điển hình của các biện pháp này có thể kể đến như:

- Mua các thiết bị, máy móc công nghệ cao, có các đặc tính đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động cho người sử dụng. Ví dụ: Giữa hai dòng máy có chức năng giống nhau, thông thường người sử dụng lao động lựa chọn dòng máy có giá thành rẻ hơn, tạo năng suất cao hơn, tiêu tốn ít nhiên liệu hơn. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động do loại máy này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng, người sử dụng lao động phải cân nhắc lựa chọn loại máy giảm thiểu khả năng tác động xấu đến người sử dụng, thay vì đặt yếu tố năng suất, nhiên liệu lên hàng đầu.

- Bố trí nhà xưởng: Người sử dụng lao động phải lập biện pháp bố trí lại nhà xưởng trong trường hợp môi trường, điều kiện trong nhà xưởng là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại cho người lao động. Ví dụ: Nhà xưởng được bố trí kín, ít cửa sổ, thiếu ánh đèn điện, các máy móc liên tục thải ra khói bụi, cùng nhiệt độ trung bình trong nhà xưởng cao, âm thanh ồn, vang hơn so với bên ngoài do môi trường kín trong nhà xưởng, dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh về phổi, tim, tai, thần kinh của người lao động. Người sử dụng lao động phải tiến hành bố trí lại nhà xưởng, lắp đặt các ô cửa thoát khí, thêm đèn, quạt, điều hòa cho người lao động, cùng các thiết bị giảm, tránh ồn tại công xưởng.

1.2. Ngăn chặn, hạn chế sự tiếp xúc, giảm thiểu tác hại của các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại bằng việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật và áp dụng các biện pháp tổ chức, hành chính (thông tin, tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng nội quy, quy trình làm việc an toàn, vệ sinh lao động; chế độ bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động; quản lý máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động)

So với các biện pháp trên, các biện pháp thuộc nhóm này không đảm bảo các yếu tố nguy hiểm, có hại có thể bị triệt tiêu hoàn toàn, hoặc giảm đáng kể khả năng gây thiệt hại của các yếu tố này. Nên thông thường, người sử dụng lao động không thực hiện đơn lẻ một biện pháp nào, mà thực hiện chúng đồng thời và có sự phối hợp của nhiều chủ thể khác nhau tại nơi làm việc. Trong đó:

a. Các biện pháp kỹ thuật

Các biện pháp kỹ thuật là các biện pháp đảm bảo an toàn thông qua các quy trình kỹ thuật, sự thay đổi về kỹ thuật. Trong các biện pháp kỹ thuật, điển hình nhất có thể kể đến:

- Thay đổi quy trình sản xuất. Ví dụ: Người lao động thực hiện công việc sản xuất theo quy trình sản xuất các chi tiết nhỏ rồi lắp ráp vào thành các bộ phận trong 02 giờ kể từ khi các chi tiết được sản xuất xong. Tuy nhiên do các chi tiết này được làm từ các nguyên vật liệu có thể gây nguy hại cho người lao động về sức khỏe ở nhiệt độ cao, nên người sử dụng lao động thay đổi quy trình, đưa các chi tiết vào kho đông lạnh trước khi người lao động tiến hành lắp ráp.

- Thay đổi quy trình an toàn, vệ sinh lao động. Ví dụ: Người lao động được huấn luyện thực hiện công việc bằng bao tay để đảm bảo tránh tiếp xúc trực tiếp với các vật liệu, máy móc có thể gây nguy hại cho người lao động. Tuy nhiên việc sử dụng bao tay khiến người lao động gặp khó khăn trong thực hiện công việc, đồng thời cũng không giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp của người lao động. Vì vậy người sử dụng lao động bố trí cho người lao động dụng cụ gắp nguyên vật liệu từ xa và thời gian thực hiện bước chuyển nguyên vật liệu lâu hơn nhằm đảm bảo an toàn cho người lao động.

b. Các biện pháp tổ chức, hành chính

Các biện pháp tổ chức hành chính không phải là các biện pháp trực tiếp tác động vào môi trường làm việc, điều kiện làm việc của người lao động, nhưng lại là các biện pháp lâu dài, có ảnh hưởng sâu rộng đến người lao động, như:

- Thông tin, tuyên truyền, huấn luyện người lao động: Các biện pháp này giúp nâng cao ý thức, hiểu biết của người lao động về an toàn, vệ sinh lao động, giúp người lao động nhận thức rõ trách nhiệm cũng như quyền của mình. Các hoạt động tuyên truyền này có thể thực hiện thông qua biển báo, chỉ dẫn, phương tiện truyền thông của người sử dụng lao động với người lao động như loa, đài tại nơi làm việc, văn bản nội bộ,…

- Ban hành nội quy: Nội quy lao động là văn bản do người sử dụng lao động ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ, đối tượng tại nơi làm việc. Cũng giống như biện pháp thông tin, tuyên truyền, người lao động được tiếp cận thông tin qua nội quy. Tuy nhiên nội quy có tính chất bắt buộc tại nơi làm việc, người lao động có trách nhiệm thực hiện nội quy.

- Xây dựng chế độ bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động: Khám sức khỏe định kỳ, chi trả cho người lao động khám suy giảm khả năng lao động (khi có kết quả suy giảm khả năng lao động),… Hoạt động này giúp phát hiện ra các vấn đề sức khỏe của người lao động để bố trí môi trường, điều kiện làm việc hoặc đưa người lao động thực hiện công việc khác phù hợp.

2. Xác định các yếu tố cơ bản để thực hiện mục tiêu, biện pháp đã đề ra

Theo Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 39/2016/NĐ-CP ngày 15/05/2016 của Chính phủ, người sử dụng lao động phải xác định 03 yếu tố sau để thực hiện mục tiêu, biện pháp đã đề ra:

- Thời gian: Thời gian phù hợp để người lao động thích nghi với biện pháp của người sử dụng lao động.

- Địa điểm: Toàn bộ cơ sở làm việc, hay một bộ phận nhỏ ở nơi làm việc, phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của biện pháp cũng như yếu tố nguy hiểm, có hại.

- Nguồn lực: Khi phí, người tham gia thực hiện.

Luật Hoàng Anh

Theo quy định pháp luật, người lao động có quyền được cung cấp thông tin đầy đủ về các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc và người sử dụng lao động có trách nhiệm phòng tránh các yếu tố nguy hiểm.Vậy yếu tố nguy hiểm là gì? Có ảnh hưởng gì đến an toàn lao động?

Bài viết Yếu tố nguy hiểm là gì? dưới đây sẽ cung cấp khái quát đến bạn đọc các thông tin cần thiết liên quan.

Một số khái niệm liên quan

Điều 3 Luật an toàn, vệ sinh lao động 2015 giải thích một số từ ngữ như sau:

“ 2. An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm. Nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động.”

“8. Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.”

Để trả lời cho câu hỏi yếu tố nguy hiểm là gì? căn cứ vào Khoản 4 Điều 3 Luật an toàn, vệ sinh lao động 2015. Theo đó, khái niệm yếu tố nguy hiểm được quy định như sau:

“ Yếu tố nguy hiểm là yếu tố gây mất an toàn, làm tổn thương hoặc gây tử vong cho con người trong quá trình lao động.”

Có thể thấy, Yếu tố nguy hiểm chính là yếu tố gây ra các tai nạn lao động, làm mất an toàn lao động.Vì vậy, việc kiểm soát và phòng chống yếu tố nguy hiểm là việc làm vô cùng cần thiết đối với công tác an toàn vệ sinh lao động để giảm thiểu những tai nạn lao động, rủi ro sản xuất.

Phân nhóm các yếu tố nguy hiểm

Các yếu tố nguy hiểm gây tai nạn lao động rất đa dạng, tuy nhiên có thể chia thành 5 nhóm cơ bản, gồm:

1/ Nhóm yếu tố nguy hiểm cơ học gồm:

– Các bộ phận, cơ cấu truyền động (đai truyền, bánh răng, trục khuỷu…)

– Các bộ phận chuyển động quay với vận tốc lớn (đá mài, cưa đĩa, bánh đà, máy li tâm, trục máy tiện, máy khoan, trục cán ép…).

– Các mảnh dụng cụ, vật liệu gia công văng bắn (phoi, bụi vật liệu gia công hoặc các mảnh dụng cụ gãy vỡ như: đá mài, dao cắt gọt lưỡi cưa…).

-Vật rơi từ trên cao, gẫy sập đổ các kết cấu công trình.

– Trơn, trượt, ngã…

2/ Nhóm yếu tố nguy hiểm về điện: Điện giật, bỏng điện, chập cháy nổ do điện, sét đánh…

3/ Nhóm yếu tố nguy hiểm về hóa chất (thể rắn, lỏng, khí và hơi): gây nhiễm độc cấp tính (SO2, SO3, oxit cacbon: CO, CO2; oxit nitơ: NO2; hóa chất bảo vệ thực vật và các loại hóa chất độc hại khác thuộc danh mục phải khai báo, đăng ký) hoặc bỏng do hóa chất (độ 2, độ 3).

4/ Nhóm yếu tố nguy hiểm nổ: Nổ hóa học (nổ cháy xăng dầu, khí đốt, thuốc nổ..); nổ vật lý (nổ nồi hơi, bình nén khí…).

5/ Nhóm yếu tố nguy hiểm về nhiệt: Kim loại nóng chảy, vật liệu được gia nhiệt, thiết bị nung, khí nóng, hơi nước nóng, … có thể gây bỏng, cháy rộp da,…

Sự khác nhau giữa yếu tố nguy hiểm và yếu tố có hại là gì?

Kiểm soát các yếu tố nguy hiểm

Người sử dụng lao động phải tổ chức đánh giá, kiểm soát yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc để đề ra các biện pháp kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe cho người lao động. Nghị định 39/2016/NĐ-CP hướng dẫn luật an toàn, vệ sinh lao động quy định về vấn đề kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, cụ thể như sau:

Thứ nhất: Nguyên tắc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc

Kiểm soát các yếu tố nguy hiểm người sử dụng lao động phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây:

1. Thường xuyên theo dõi, giám sát các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc;

2. Phải có người hoặc bộ phận được phân công chịu trách nhiệm về kiểm soát các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc; đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, phải quy định việc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm đến từng tổ, đội, phân xưởng;

3. Lưu hồ sơ về kiểm soát các yếu tố nguy hiểm phù hợp quy định Luật An toàn, vệ sinh lao động, các Điều 4, 5, 6 và 7 Nghị định này và quy định pháp luật chuyên ngành;

4. Công khai kết quả kiểm soát các yếu tố nguy hiểm cho người lao động được biết;

5. Có quy trình kiểm soát các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm phù hợp với Điều 18 Luật An toàn, vệ sinh lao động, các Điều 4, 5, 6 và 7 Nghị định này và quy định pháp luật chuyên ngành.

Thứ hai: Nội dung kiểm soát các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc

1. Nhận diện và đánh giá các yếu tố nguy hiểm.

2. Xác định Mục tiêu và các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm.

3. Triển khai và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm.

Thứ ba: Nhận diện và đánh giá các yếu tố nguy hiểm

1. Phân tích đặc Điểm Điều kiện lao động, quy trình làm việc có liên quan và kết quả kiểm tra nơi làm việc.

2. Khảo sát người lao động về những yếu tố có thể gây tổn thương, bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe của họ tại nơi làm việc.

3. Trường hợp không nhận diện, đánh giá được đầy đủ, chính xác bằng cảm quan thì phải sử dụng máy, thiết bị phù hợp để đo, kiểm các yếu tố nguy hiểm;

Thứ tư: Xác định Mục tiêu và biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm

1. Căn cứ vào việc nhận diện, đánh giá các yếu tố nguy hiểm người sử dụng lao động xác định Mục tiêu và các biện pháp phù hợp để phòng, chống tác hại của các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc, theo thứ tự ưu tiên sau đây:

a) Loại trừ các yếu tố nguy hiểm ngay từ khâu thiết kế nhà xưởng, lựa chọn công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu;

b) Ngăn chặn, hạn chế sự tiếp xúc, giảm thiểu tác hại của các yếu tố nguy hiểm bằng việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật và áp dụng các biện pháp tổ chức, hành chính (thông tin, tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng nội quy, quy trình làm việc an toàn, vệ sinh lao động; chế độ bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động; quản lý máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động).

2. Xác định rõ thời gian, địa Điểm và nguồn lực để thực hiện Mục tiêu, biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm.

Thứ năm: Triển khai và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm

1. Người sử dụng lao động hướng dẫn người lao động biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc.

2.  Người sử dụng lao động phải lập kế hoạch và tổ chức kiểm tra, đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống yếu tố nguy hiểm ít nhất 01 lần/năm; đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, phải được kiểm tra, đánh giá đến cấp tổ, đội, phân xưởng.

3. Việc kiểm tra biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc gồm các nội dung sau đây:

a) Tình trạng an toàn, vệ sinh lao động của máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng và nơi làm việc;

b) Việc sử dụng, bảo quản phương tiện bảo vệ cá nhân; phương tiện phòng cháy, chữa cháy; các loại thuốc thiết yếu, phương tiện sơ cứu, cấp cứu tại chỗ;

c) Việc quản lý, sử dụng máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động;

d) Kiến thức và khả năng của người lao động trong xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp;

đ) Việc thực hiện chế độ bảo hộ lao động, chăm sóc sức khỏe người lao động;

e) Việc thực hiện kiến nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra an toàn, vệ sinh lao động, Điều tra tai nạn lao động.

4. Việc đánh giá hiệu quả biện pháp phòng, chống yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc gồm các nội dung sau đây:

a) Việc tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống yếu tố nguy hiểm;

b) Kết quả cải thiện Điều kiện lao động.

Trên đây là các nội dung liên quan đến Yếu tố nguy hiểm là gì? Hy vọng các thông tin này hữu ích và giúp bạn giải đáp thắc mắc.