Bài viết về sáng kiến kinh nghiệm của Thầy Phó hiệu trưởng.Đọc bài Lưu Show SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP “ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ, CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN”
Để nâng cao chất lượng dạy học, các hoạt động đội ngủ quản lý của đơn vị, về việc quản lý chỉ đạo các hoạt động chuyên môn là vai trò rất quan trọng. Vì nó tạo được nhất quán đồng thuận trong sự đoàn kết gắn bó, sự hợp tác nhịp nhàng với nhau trong tập thể sư phạm của đơn vị, tạo ra được một môi trường thân thiện, nâng cao ý thức tự giác, ý thức trách nhiệm và thói quen làm việc có tổ chức kỉ luật, chấp hành tốt các quy định của đơn vị, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ chất lượng dạy và học học đạt hiệu quả cao. Ngoài chất lượng dạy học ra chất lượng học của các em là hết sức quan trọng để đạt kết quả tốt thì đồi hỏi trước hết việc tổ chức các hoạt động chuyên môn của đơn vị phải đặt biệt quan tam. Vì đây là một trong những yếu tố rât quan trọng dẫn đên nâng cao chất lượng của đơn vị. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục hiện nay, cán bộ quản lý và giáo viên phải nắm chắc quy chế chuyên môn của ngành, không ngừng học hỏi, trao dồi chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học, quán triệt tốt nghiệp vụ, nhiệm vụ của nhà giáo theo điều lệ trường Tiểu học quy định. Đặc biệt toàn ngành đang tiếp tục thực hiện hai không với bốn nội dung: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc học sinh ngồi nhầm lớp. Cuộc vận động “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”. Phong trào giúp đỡ và phụ đạo học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng do Bộ giáo dục quy định; phong trào xanh, sạch , đẹp; phong trào trường học thân thiện và học sinh tích cực… Nhằn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, chỉ tiêu năm học 2018-2019, trong đơn vị đã cụ thể hóa các văn bản của ngành giáo dục huyện Hồng Dân thành những trương trình hành động cụ thể của nhà trường ngay từ đầu năm học. Trên cơ sở đó nhà trường tiến hành xây dựng kế hoạch cho riêng mình về cũng cố, nâng cao chất lượng đầu vào bậc tiểu học và nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh cho tất cả các khối lớp. Từ những vấn đề trên bản thân tôi tiến hành tổ chức hội thảo rút ra được những nội dung cơ bản và những sáng kiến trong “ việc đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo hoạt động chuyên môn ” để nghiên cứu cụ thể như sau:
I.Thực trạng:
- Trường tiểu học Nhà Lầu nhiều năm được công nhận là trường có tập thể tiến tiến. Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lí, chỉ đạo chuyên môn được lãnh đạo địa phương và lãnh đạo Phòng GD&ĐT đánh giá cao. - Cán bộ quản lý bao gồm (hiệu trưởng, hiệu phó, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn) đều có trình độ bằng cấp chuyên môn nghiệp vụ cao (Đại học và cao đẳng), có kinh nghiệm và tay nghề vững vàng, là giáo viên dạy giỏi từ cấp trường đến cấp huyện. - Cán bộ quản lý rất tâm huyết với nghề, tận tụy với công việc được giao. - Cán bộ quản lý có sức khỏe, có chí cầu tiến, dám nghĩ dám làm và giám chịu trách nhiệm. 2) Hạn chế Trong công tác tổ chức các hoạt động sư phạm của đơn vị tuy nhiên đã được nhà trường thực hiện thường xuyên, nhưng tôi thấy rằng công việc này vẫn nảy sinh nhiều bất cập từ đó tạo sự đồng thuận chưa thống nhất trong cán bộ, giáo viên làm ảnh hưởng tinh thần đoàn kết trong sự phối hợp, hợp tác chưa nhịp nhàng, nguyên nhân chủ yếu của vấn đề là: + Các tổ chuyên môn, giáo viên và nhân viên xây dựng kế hoạch hoạt động chưa chặt chẽ, chưa khoa học và chưa thuyết phục, chưa phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị. + Việc phân công trách nhiệm, nhiệm vụ của từng thành viên chưa phù hợp cho từng đối tượng, từ đó nảy sinh bất cập, sự không đồng tình cao trong tập thể và cá nhân. + Quá trình tổ chức nhận xét qua từng hoạt động còn mang tính chung chung, không rõ ràng, cụ thể từ đó chưa phát huy tích cực đối tượng và hạn chế đối tượng tiêu cực tạo ra sự mất đoàn kết trong đơn vị, làm hạn chế chất lượng, hoạt động sư phạm trong nhà trường. + Do giáo viên còn mang nặng tình cảm, ngại ngùng ít phát biểu xây dựng từ đó ảnh hưởng đến cộng đồng, hợp tác nhau trong công việc và quá trình đóng góp ý kiến đồng nghiệp, để cùng nhau tiến bộ chưa thật sự mang tính hiệu quả cao. + Một số giáo viên còn thụ động chưa tự giác trong công việc nguyên nhân là chưa nhận thức rỏ vấn đề còn trông chờ, đùn đẩy nhau. + Trong đơn vị việc chấp hành nội quy, quy định ý thức tổ chức và kỉ luật trong đơn vị từng bước được ổn định tuy nhiên nhưng vẫn còn một số trường hợp chấp hành chưa tốt. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của một số cán bộ giáo viên, nhân viên, còn nể nang tình cảm đồng thời thiếu sự gương mẫu trong việc chấp hành tổ chức, kĩ luật các quy định của ngành và của đơn vị đề ra. + Hiện nay đơn vị đã xây dựng kế hoạch cụ thể nhà trường bước đầu thực hiện có hiệu quả cao như tập thể thầy, cô giáo và các cha mẹ học sinh chưa thường xuyên gặp gỡ, trao đổi bày giải tâm tư nguyện vọng,… để từ đó cùng nhau giải quyết vấn đề khó khăn, vướng mắt và tạo được niềm tin gần gũi và thân thiện nhau. + Một số giáo viên và học sinh chưa thật sự tiếp cận với môi trường mới còn ảnh hưởng với môi trường trước đây như cán bộ quản lý nói giáo viên nghe, giáo viên nói học sinh nghe và làm theo chỉ có thông tin là một chiều không có thông tin phản hồi ngược lại từ đó chưa rút được kinh nghiệm không phát huy được sự chủ động, sáng tạo và sự gần gũi thân thiện trong nhà trường. + Việc chỉ đạo cho giáo viên xây dựng nề nếp hoạt động chuyên môn cán bộ quản lý của trường chưa thật sự quan tâm, thể hiện là có chỉ đạo nhưng chưa có nội dung cụ thể nên dẫn đến giáo viên chưa phát huy chuyên môn riêng cho mình + Ý thức trách nhiệm của giáo viên không đồng điều từ đó hiệu quả giảng dạy của giáo viên chưa cao. II. Từ thực trạng trên tôi đề xuất một số giải pháp “đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo hoạt động chuyên môn : 1. Xây dựng kế hoạch dạy học: - Thay cho việc dạy học đang được thực hiện theo từng bài, từng tiết trong sách giáo khoa như hiện nay, các tổ chuyên môn căn cứ vào chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn nội dung để xây dựng các chủ đề dạy học phù hợp với việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực tế của nhà trường. Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định năng lực, phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chủ đề hoặc bài học đã xây dựng. - Tiến hành xây dựng kế hoạch lồng ghép, tích hợp cho mỗi môn hoc; chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng sống, hiểu biết xã hội.. - Thực hiện kế hoạch dạy học lịch sử, địa lí và văn hóa địa phương theo công văn số 956/SGDĐT-MN-TH Bạc Liêu ngày 15 tháng 9 năm 2015 về việc hướng dẫn sử dụng tài liệu văn hóa địa phương. - Xây dựng kế hoạch dạy học cần đảm bảo các nguyên tắc: Nâng cao kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục của chương trình giáo dục tiểu học hiện hành; học sinh được cung cấp kiến thức, kỹ năng theo chuẩn chương trình giáo dục tiểu học; được hình thành, phát triển các phẩm chất, năng lực; đảm bảo tính logic của mạch kiến thức và tính thống nhất giữa các môn học và các hoạt động giáo dục; tổng thời lượng của các môn học không ít hơn thời lượng quy định trong chương trình giáo dục kèm theo quyết định 16 của BGD&ĐT. 2. Triển khai dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh: - Tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực của học sinh dựa trên cơ sở chuẩn kiến thức, kỹ năng và theo hướng hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; dạy học sát đối tượng, chú trọng công tác phụ đạo HS chưa đạt chuẩn,bồi dưỡng HSNK, trong nội dung bài giảng cần có những phần nâng cao để học sinh được nâng lên đủ khả năng để phát huy năng khiếu; đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề; bảo đảm cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh; phối hợp tốt giữa làm việc cá nhân và theo nhóm; tăng cường thực hành, vận dụng vào thực tiễn, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học. -Tăng tính chủ động, thái độ học tập tích cực của học sinh, khắc phục hoàn toàn cách dạy theo lối truyền thụ một chiều, tránh tình trạng cho học sinh ghi chép quá nhiều, thiếu trọng tâm. Kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp dạy học, kết hợp có hiệu quả giữa PPDH truyền thống và PPDH hiện đại. - Dạy học bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng; thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lí các hoạt động của giáo viên và học sinh; thiết kế câu hỏi hợp lý, tập trung vào trọng tâm và năng lực cần đạt của mỗi bài học, tránh nặng nề quá tải, chú ý liên hệ thực tế ở mỗi nội dung bài học. - GV phải sử dụng ngôn từ chuẩn xác, trong sáng, sinh động, dễ hiểu, tác phong thân thiện, khuyến khích, động viên học sinh học tập. Dạy học phải thông qua các hoạt động học tập của học sinh, phải thể hiện mối liên hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh; không nên gây áp lực và không thiện cảm đối với học sinh tạo nên sự chai lỳ, thụ động, bất hợp tác từ phía học sinh, hoặc dẫn đến tình trạng bỏ học. - Bồi dưỡng năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng sáng tạo của học sinh, rèn luyện khả năng tự học cho học sinh. Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập theo định hướng phát triển năng lực. Tổ chức dạy học bằng nhiều hình thức trong hoặc ngoài lớp học, coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà hoặc ngoài nhà trường. - Mỗi giáo viên phải chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy từ việc soạn bài đến việc giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi đối tượng học sinh, các hoạt động dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh phải được thể hiện trong bài soạn. Sử dụng PPDH một cách hợp lý, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với đặc trưng môn học, nội dung, tính chất của mỗi bài học. -Thiết kế và hướng dẫn cho học sinh thực hiện các bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kỹ năng, hướng dẫn sử dụng các đồ dùng dạy học, tổ chức có hiệu quả các giờ thực hành, hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học giải quyết các bài tập và những tình huống trong thực tiễn. - Chú ý tích hợp, lồng ghép giáo dục đạo đức, học 5 điều Bác Hồ dạy, giáo dục tuyên truyền về biển đảo… - Mỗi giáo viên phải thường xuyên đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, biết tự đánh giá năng lực giảng dạy của bản thân nhằm có sự điều chỉnh cho phù hợp theo hướng có lợi cho học sinh ( Phân tích tiết dạy theo hướng hoạt động học của học sinh). 3. Đổi mới phương pháp KTĐG định hướng phát triển năng lực học sinh: - Thực hiện đổi mới KTĐG theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, thể hiện ở các hình thức KTĐG đều hướng tới phát triển năng lực học sinh theo đặc thù từng môn học. Chú ý việc phân tích kết quả kiểm tra, so sánh kết quả kiểm tra giữa các lớp, qua đó điều chỉnh hoạt động giảng dạy và học tập. - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc ra đề kiểm tra theo ma trận chung cho các loại bài kiểm tra riêng và chung. Thực hiện nghiêm túc và hiệu quả quy trình ra đề. - Nâng cao chất lượng đề kiểm tra thông qua việc thiết lập ma trận đề, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng. Đề kiểm tra phải ở 4 mức độ theo thông tư 22 “Biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng linh hoạt sáng tạo”. - Kết hợp một cách hợp lý giữa tự luận và trắc nghiệm giữa kiểm tra lý thuyết và kiểm tra thực hành trong mỗi đề kiểm tra; tăng cường rèn luyện kỹ năng thực hành, trãi nghiệm cho học sinh đối với các môn học. - Đối với môn Tiếng Anh cần thực hiện nghiêm túc tinh thần: học Tiếng Anh theo chương trình của bộ quy định. - Thực hiện việc chấm bài, trả bài nghiêm túc. Chấm bài không bỏ sót lỗi, có lời nhận cụ thể, có nhận xét, động viên sự cố gắng tiến bộ và những thiếu sót, biện pháp khắc phục cho học sinh; trả bài phải giúp học sinh thầy được nguyên nhân thiếu sót, cho điểm kết hợp giữa đánh giá kết quả bài làm với theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua kết quả đánh giá thường xuyên. - Các giáo viên phải xác định được năng lực đầu ra cần đạt của mỗi tiết học hay chủ đề, khối lớp sau khi giảng dạy nhằm tiến hành KTĐG đúng thực chất. - Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ là việc xem học sinh học được cái gì mà quan trọng hơn là biết học sinh học như thế nào, có biết vận dụng không. 4. Đổi mới hoạt động tổ chuyên môn: - Trên cơ sở kế hoạch dạy học đã được duyệt, tổ chuyên môn, giáo viên có -thể thiết kế tiến trình dạy học cụ thể cho mỗi chủ đề mà không nhất thiết phải theo bài/tiết trong sách giáo khoa. Mỗi chủ đề có thể được thực hiện ở nhiều tiết học, mỗi tiết có thể chỉ thực hiện một hoặc một số bước trong tiến trình sư phạm của bài học. Các nhiệm vụ học tập có thể được thực hiện ở trong hoặc ngoài giờ trên lớp. Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần chú trọng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở ngoài lớp học và ở nhà nhằm để hỗ trợ thêm cho các em. - Tổ chức thực hiện dạy học và dự giờ theo kế hoạch của nhà trường. Trên cơ sở các chuyên đề dạy học đã được xây dựng, tổ chuyên môn phân công giáo viên thực hiện bài học để dự giờ, phân tích và rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi dự giờ, cần tập trung quan sát hoạt động học của học sinh thông qua việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ học tập đảm bảo các yêu cầu về hướng dẫn đánh giá xếp loại giờ dạy mới. - Tổ chức hội thảo tại tổ bàn về các biện pháp giảng dạy có hiệu quả và cách ra đề kiểm tra cho phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở từng môn. - Thống nhất xây dựng nội dung các chuyên đề, tập trung các chuyên đề khó và các chuyên đề mang lại hiệu quả thiết thực cho kết quả học tập của học sinh. - Sinh hoạt tổ chuyên môn đi sâu vào phân tích đánh giá các giờ dạy, phân tích tính hiệu quả các biện pháp đổi mới trong mỗi tiết dạy, phân tích đánh giá các đề kiểm tra và so sánh kết quả kiểm tra giữa các lớp. Thống nhất việc soạn giáo án ở từng môn, cách sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả, tự làm đồ dùng dạy học, thực hiện việc lồng ghép các giáo dục, xác định năng lực đầu ra ở mỗi môn. - Xây dựng ngân hàng đề kiểm tra ở mỗi tổ chuyên môn thông qua việc chắt lọc các đề hay tại tổ và tham khảo đề kiểm tra ở các trường khác hay trên mạng. Mỗi giáo viên phải có ít nhất 01 đề kiểm tra/lần kiểm tra và nộp cho PHTCM duyệt. - Mỗi tổ chuyên môn đăng ký tổ chức thao giảng mẫu 01 tiết/học kỳ/1 giáo viên về đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực học sinh. - Tổ chức kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các quy chế chuyên môn, kiểm tra các loại sổ của giáo viên, việc lên lớp, vào điểm, đánh giá, nhận xét học sinh và việc thực hiện kế hoạch chung của tổ. 5. Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động đổi mới PPDH-KTĐG: - Ngoài công tác kiểm tra của phòng giáo dục, nhà trường sẽ tiến hành kiểm tra việc thực hiện công tác đổi mới 2 lần/học kỳ thông qua kiểm tra hồ sơ CM, kiểm kiểm tra hoạt động sư phạm, kiểm tra đột xuất các tiết dạy, kiểm tra chất lượng đề kiểm tra, kết quả kiểm tra và so sánh kết quả kiểm tra giữa các lớp. - Tổ chuyên môn tiến hành kiểm tra thường xuyên hằng tháng và báo cáo kết quả cho lãnh đạo nhà trường tại các buổi họp . - Tăng cường công tác dự giờ, góp ý về các biện pháp đổi mới PPDH và KTĐG. Tiến hành kiểm tra công tác tổ chức kiểm tra chung, coi thi, chấm bài của giáo viên. - Kiểm tra việc đánh giá, nhận xét học sinh của giáo viên vào cuối mỗi học kỳ. - Cuối học kỳ, cuối mỗi năm học tổ chức sơ kết, tổng kết việc triển khai kế hoạch nhằm điều chỉnh những hạn chế, phát huy những điểm mạnh trong thời gian tới. -Kết quả đổi mới PPDH-KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh là một trong những tiêu chí để đánh giá xếp loại chuẩn nghề nghiệp giáo viên vào cuối năm học. III.Từ những thực trạng và giải pháp nêu trên đơn vị đã đạt kết quả sau: Qua thực hiện xây dựng quản lý chuyên môn quản lý dạy học trường Tiểu học Nhà Lầu xây dựng được một tập thể nhà trường đoàn kết, nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, yêu nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, chú trọng đến hiệu quả không còn tình trạng dạy qua loa. Xóa bỏ dần việc làm không còn phù hợp, xây dựng nề nếp quản lý chuyên môn theo phương pháp đổi mới trên cơ sở chỉ đạo của phòng giáo dục và đào tạo và tình hình thực tế của đơn vị. Giáo viên có ý thức của tầm quan trọng xây dựng nề nếp quản lý chuyên môn và quản lý học tập của học sinh, nên không ngại hao tốn thời gian và công sức, cố gắng vận dụng hiểu biết của mình vào công tác giảng dạy thực tế trên lớp. Giáo viên không cần dành riêng thời gian mà có thể lồng ghép vào các tiết học, giờ sinh hoạt ngoại khóa,… Dễ thực hiện, dễ nhận thấy sự tiến bộ trong sinh hoạt chuyên môn của các tổ và trong nề nếp học tập của học sinh. Phù hợp với nhận thức xã hội, được mọi người ủng hộ. Học sinh sớm được hình thành ý thức, hành vi tốt, có nề nếp song song với việc dạy kiến thức. Giáo viện lớp dạy chữ, dạy có trách nhiệm cao sẽ tạo cho nhà trường một thế hệ học sinh vừa giỏi kiến thức , có kĩ năng và thái độ, đặt biệt là các em phát huy tối đa năng lực học tập của các em. Đó cũng là cách góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Là điều kiện tốt cho giáo viên trau dồi kiến thức, có ý thức tự hoàn thiện bản thân hơn từ đó giáo dục học sinh tốt hơn. Trên cơ sở đó có nhiều giáo viên chủ nhiệm lớp có nhiều sáng tạo trong khâu xây dựng nề nếp giảng dạy và học tập của học sinh. Bảng kết quả chất lượng học sinh cuối học KÌ I. Toán và Tiếng Việt
Năng lực và phẩm chất Trong học kì I không có em nào kết quả là C mà tất cả học sinh lớp đạt từ Đ trở lên theo 7 nội dung Bộ giáo dục quy định nhận xét năng lực và phẩm chất học sinh tiểu học. Qua nhiều năm quản lý chỉ đạo công tác chỉ đạo các hoạt động chuyên môn bản thân tôi rút ra những bài học kinh nghiệm như sau: Ngay vào từ đầu năm học làm tham mưu với hiệu trưởng tổ chức quán triệt các văn bản có liên quan đế chuyên môn do Bộ, Sở, Phòng ban hành mời tất cả cán bộ, giáo viên và nhân viên tham dự để rút kinh nghiệm và đưa ra giải pháp tốt nhất. Từ đó tổng hợp ý kiến và đưa ra giải pháp chỉ đạo khả thi. Chỉ đạo cho giáo viên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh nhằn có biện pháp chủ nhiệm tốt hơn Thường xuyên phối hợp với gia đình và có nhiều biện pháp giúp đỡ các em ngay đầu năm học để tạo nề nếp học tập tốt cho các em. Thường xuyên dự giờ thăm lớp giáo viên dạy lớp gớp ý tư vấn kịp thời qua từng tiết dạy. Sáng kiến có khả năng áp dụng tất cả các trường Tiểu học trên địa bàn huyện Hồng Dân đặc biệt là đối với các trường có điều kiện khó khăn như trường Tiểu học Nhà Lầu. Đồng thời sáng kiến được nhân rộng trong hội đồng sư phạm của đơn vị trường . C. PHẦN KẾT LUẬN I. Kết luận chung. Nhìn trung trong thực tế những năm qua của trường Tiểu học Nhà Lầu những người làm công tác quản lí đã nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lí, chỉ đạo chuyên môn của một tập thể giáo viên và cả tập thể hội đồng sư phạm.Trong công tác chuyên môn của nhà trường là phải chú trọng đến việc quản lý của nhà trường, công tác giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh Bởi vậy vai trò của người quản lý là hết sức quan trọng, nếu không quan tâm và nhận thức đúng đắn của một tập thể sư phạm của nhà trường thì kết quả đạt được như mong nuốn. Để xây dựng được nề nếp hoạt động chuyên môn trong một tập thể giáo viên đứng lớp giảng dạy thì người cán bộ quản lý của nhà trường phải là đầu tàu gương mẫu, phải chịu trách nhiệm toàn bộ chất lượng giáo dục của nhà trường. Người cán bộ quản lý muốn phê phán ai trước hết phải phê phán bản thân mình. Các hoạt động giáo dục của nhà trường có chất lượng hay không điều bắt nguồn từ người quản lí tốt hay còn nhiều mặt hạn chế.Tinh thần thống nhất và đồng thuận trong một tập thể, giúp cho công tác quản lý chỉ đạo được thông suốt và chặt chẽ từ đó đem lại chất lượng đạt hiệu quả cao và thực hiện được nhiệm vụ và các chỉ tiêu mà cấp trên giao trong năm. Trên cơ sở đó người quản lí cũng không tốn công sức nhiều để đôn đốc, thúc đẩy nhắc nhở, vì mọi người điều thấy rõ trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, đồng thời cũng hăng hái và tích cực tham gia mọi công việc được lãnh đạo nhà trường phân công và cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giạo. Nếu được như thế thì mọi người điều thân thiện và nhân ái hơn. Tôi cũng tin tưởng rằng trên cơ sở đó tập thể nhà trường điều hoàn thành tốt nhiệm vụ trong năm học 2018-2019. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu cũng như từ thực tiễn quản lí chỉ đạo tôi đã cố gắng rất nhiều song do kinh nghiệm còn hạn chế cũng như trình độ bản thân còn có giới hạn. Chính vì thế, những kinh nghiệm tôi đưa ra không khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn! II.Kiến nghị: 1. Đối với nhà trường: Tham mưu tốt với lãnh đạo phòng giáo dục để đầu tư thêm cơ sở vât chất như: Xây thêm phòng học để giảng dạy và đồ dùng dạy học cho giáo viên nhằm phục vụ tốt cho từng tiết dạy. Chỉ đạo cho tất cả giáo viên tự làm thêm đồ dùng dạy học ngoài những đồ dùng có sẵn. Thương xuyên kiểm tra giám sát về công tác hoạt động chuyên môn nhằm có biện pháp khắc phục kịp thời. 2. Đối với phòng giáo dục: Cần quan tâm chỉ đạo về công tác quản lí, chỉ đạo công tác chuyên môn của đơn vị. Cần tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm trong cộng tác quản lí, chỉ dạo đổi mới hoạt động chuyên môn. 3. Đối với địa phường. Cần tuyên truyền nâng cao ý thức cho cha mẹ học sinh, có ý thức và thấy rõ trách nhiệm của mình về giáo dục con em mình. Có tinh thần trách nhiệm tham gia vào công tác giáo dục của nhà trường. Có những chính sách khen thưởng kịp thời những tập thể và các nhân làm tốt công tác giáo dục của nhà trường từ đó động viên tinh thần kịp thời cho cán bộ giáo viên, nhân viên trong đơn vị. Ban đại diện Cha mẹ học sinh vận động tất cả phụ huynh và các mạnh thường quân tích cực tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục. Ninh Thạnh Lợi A, ngày 25 tháng 03 năm 2019 Người viết HUỲNH VĂN THẮNG PHỤ LỤC
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá Click để đánh giá bài viết SKKN sáng kiến kinh nghiệm phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.3 KB, 25 trang ) PHÒNG GD& ĐT HUYỆN ĐÔNG TRIỀU 3. Giải pháp, biện pháp 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp 3.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 3 3 3 4 4 8 13 13 14 21 22 23 23 24 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng ta cùng nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học và công nghệ với xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế ngày càng cao, với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng quyết liệt, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thông tin... Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, coi con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Vì vậy, 2 đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào tạo phải đào tạo đội ngũ những người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, tiếp cận và làm chủ được công nghệ tiên tiến, có năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, có khả năng bắt kịp nhịp điệu phát triển của thời đại; Ngành Giáo dục và Đào tạo cần thực hiện giáo dục toàn diện tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục. Đặc biệt phương pháp giáo dục cần đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực của người học. Đổi mới phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, phát huy tư duy sáng tạo của người học được thực hiện theo nhiều cách, trong đó việc sử dụng thiết bị giáo dục (TBGD) là một trong những cách thức phát huy tính tích cực của người học trong quá trình dạy học. TBGD là một thành tố không thể thiếu được trong quá trình dạy học . Muốn đổi mới phương pháp dạy học phải đổi mới cả nội dung dạy học, TBGD, tổ chức dạy học và cách kiểm tra đánh giá. Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII được trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường , lớp học, sân chơi, bãi tập, máy tinh nối mạng internet, thiết bị học tập và giảng dạy hiện đại , thư viện, ký túc xá...” và “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay.” Thực tế nhiều năm học qua, các trường tiểu học đã có nhiều cố gắng và bước đầu có thành tích trong việc quản lý sử dụng và bảo quản TBGD , góp phần nâng cao chất lượng dạy học, song việc làm này còn nhiều hạn chế vì nhiều lý do khác nhau: TBGD còn thiếu (nhất là các thiết bị hiện đại), chất lượng chưa đồng bộ; ở nhiều nơi có TBGD nhưng giáo viên chưa chú ý sử dụng thậm chí có nơi giáo viên không biết sử dụng hoặc sử dụng mà không có hiệu quả. Tình trạng “Dạy chay” còn phổ biến. TBGD phần lớn chỉ được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt như: thao giảng, hội giảng, có đoàn kiểm tra. Công tác quản lý TBGD của Phó hiệu trưởng các trường còn mang tính hành chính, chiếu lệ. Trong khi đó việc sử dụng TBGD của giáo viên lại chịu ảnh hưởng nhiều từ cách quản lý TBGD của Phó hiệu 3 trưởng. Do đó vấn đề quản lý TBGD hiện nay đang là vấn đề bức xúc đặt ra, được nhiều nhà quản lý quan tâm. Từ những lý do trên và với mong muốn tìm được các biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường tiểu học nên tôi đã chọn đề tài: "Phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học". 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: - Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý sử dụng TBGD ở trường Tiểu học. - Tìm hiểu thực trạng quản lý, sử dụng TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi công tác. - Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường Tiểu học. 3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý của phó hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường Tiểu học . 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2014 đến hết tháng 4 năm 2015. - Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trường Tiểu học Quyết Thắng. 5. Phương pháp nghiên cứu: 5.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: - Nghiên cứu các văn kiên, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, chỉ thị của ngành. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về TBGD và quản lý TBGD. 5.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra thực tế, quan sát, đàm thoại, phỏng vấn, .... 5.3 Phương pháp toán học: Thống kê, xử lý các số liệu đã thu thập được. II. PHẦN NỘI DUNG 1.Cơ sở lý luận : * TBGD là một bộ phận của nội dung và phương pháp dạy học: 4 Lý luận dạy học đã khẳng định: Quá trình dạy học là một quá trình trong đó hoạt động dạy và hoạt động học phải là những hoạt động khăng khít giữa các đối tượng xác định và có mục đích nhất định. Để quá trình dạy học có chất lượng và hiệu quả cao thì chúng ta phải lựa chọn và sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau kết hợp với các TBGD phục vụ cho việc truyền thụ nội dung kiến thức. Mục tiêu và nội dung học tập trong nhà trường phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội vĩ mô. Còn sách giáo khoa và TBGD một mặt phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế xã hội, mặt khác còn chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học công nghệ đương thời. Ngày nay khi khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc thì sự tiến bộ đó cũng được phản ánh vào hệ thống TBGD ở nhà trường tiểu học. Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì TBGD đóng vai trò hỗ trợ tích cực. Vì có TBGD tốt thì ta mới có thể tổ chức được quá trình dạy học khoa học, đưa người học thực sự tham gia vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của người dạy. TBGD phải đủ và phù hợp mới triển khai được các phương pháp dạy học một cách hiệu quả. Tuy nhiên, đứng trên một góc độ khác thì TBGD còn là một bộ phận không thể thiếu được của nội dung và phương pháp dạy học. TBGD hầu hết là các sản phẩm khoa học kỹ thuật có chức năng xác định và mang tính mục đích sư phạm rất cao, chúng chứa đựng một tiềm năng tri thức to lớn đồng thời đóng vai trò là đối tượng nhận thức. *Vai trò của TBGD trong việc đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục: TBGD có vai trò to lớn trong quá trình nhận thức.Theo Lê- nin ,qui luật nhận thức của con người là: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.” Để quá trình nhận thức của con người nói chung đạt hiệu quả cao thì cần phải thông qua quá trình nghe, nhìn và thực hành. Với học sinh tiểu học, (lứa tuổi từ 6 đến 11, 12 tuổi ) tư duy của các em mới chỉ là tư duy cụ thể, tư duy hình ảnh chiếm ưu thế hơn so với tư duy trừu tượng. Các hình ảnh trực tiếp, các dụng cụ, mô hình, hiện tượng được trực quan hoá luôn tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với các em. Không ít những nội dung học tập phức tạp cần đến sự hỗ trợ tích cực của phương tiện trực quan mới giải quyết được như: chứng minh các hiện tượng khoa 5 học tự nhiên, toán học, … học sinh rất cần được trực tiếp tận mắt nhìn thấy, tai nghe thấy, tay được cầm nắm, được trực tiếp làm thí nghiệm, được lắp ráp thao tác, quan sát nhận xét bằng việc sử dụng các dụng cụ, phương tiện cụ thể. Nghĩa là học bằng tất cả các giác quan huy động mọi tiềm năng để nhận thức. Nhu cầu nhận thức của các em gắn liền với các việc làm cụ thể và hoàn cảnh, môi trường về nghe nhìn, sờ, sử dụng đồ dùng trực quan trước khi có thể hình thành logic, tư duy trừu tượng đúng đắn. Lúc này, sự hình thành các biểu tượng quan trọng hơn sự khám phá bản chất các mối quan hệ bên trong của sự vật hiện tượng. Mà quá trình dạy học là quá trình nhận thức ở mức độ cao, vì vậy TBGD không thể thiếu trong quá trình dạy học. Nâng dần tính trực quan của bài học và tỷ lệ bài học có thực nghiệm theo quy định của chương trình, tăng cường việc thực hành của học sinh là nhằm tạo ra một nền tảng thực nghiệm của tri thức, làm ngắn lại con đường đạt được sự hiểu biết. Bằng thực nghiệm và trực quan, thực hành tạo ra hoạt động toàn diện ( vận động và tư duy) và tích cực của người học, giúp học tự tìm ra các vấn đề cho chính mình một cách chủ động theo triết lý “Tôi làm, tôi hiểu” và phương pháp “Tập phát minh”. Để học tập khoa học theo phương pháp được khám phá, chứng minh kiến thức sách giáo khoa và trong thực tế, thể hiện tường minh phương pháp nghiên cứu và kỹ năng thì các phương tiện, dụng cụ phòng thí nghiệm có vai trò và tiềm năng to lớn. Để trình bày với sự trực quan cao trong việc quan sát, trình diễn vận hành của cơ chế, cấu trúc, vân động, mô hình, mô phỏng thì các phương tiện Nghe Nhìn có ưu thế rõ rệt. TBGD cho phép khai thác sâu sắc nội dung sự vật, hiện tượng khoa học trong tài liệu học tập (thực nghiệm khoa học phải được “dựng’ từ trong sách giáo khoa lên mặt bàn bằng các vật liệu cụ thể của người học). Như vậy TBGD cho phép: - Thực hiện được “Nguyên tắc trực quan” trong dạy học (“trực quan” được hiểu theo nghĩa rộng : liên quan đến mọi giác quan của con người ). 6 - Góp phần đảm bảo chất lượng kiến thức theo những đặc trưng cơ bản: Tính chính xác, khoa học; Tính tổng quát; Tính hệ thống; Tính chuyển hoá; Tính thực tiễn, vận dụng được; Tính bền vững. - Dạy phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, làm việc - bộ phận không tách rời của kiến thức. - Rèn kỹ năng nhiều mặt cho người học. * Vai trò của các phương tiện kỹ thuật: Trong các loại TBGD thì các phương tiện kỹ thuật dạy học (PTKTDH) có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tạo khả năng hình thành, củng cố, hệ thống hoá, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. PTKTDH gồm các máy chiếu quang học, máy tạo hoặc khuyếch đại âm thanh, hình ảnh, máy lưu giữ và tái hiện thông tin, máy tính và công nghệ thông tin… vốn chứa đựng những tiềm năng sư phạm to lớn trong việc hỗ trợ tích cực giảng dạy và học tập. Bằng những phương tiện hiện đại, người ta đã tổ chức được các hội thảo, hội nghị, các lớp học theo phương thức giáo dục từ xa, các lớp học qua vệ tinh… Việc học tập tại gia đình cho người lớn tuổi cũng đã được một số nước áp dụng và sẽ mở rộng trong những năm tới. Hiện tại đã có nhiều phương tiện kỹ thuật mới được ứng sử dụng trong dạy học, giáo dục đặc biệt là việc ứng dụng tin học. Với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học và công nghệ, PTKTDH được sử dụng trong trường học ngày càng nhiều sẽ làm thay đổi một cách căn bản về mặt phương pháp: làm cho quá trình giáo dục sinh động và hiệu quả hơn. TBGD và PTKTDH tạo điều kiện đi sâu vào các đề tài nghiên cứu đồng thời cho phép trình bày vấn đề một cách sinh động, chứa đựng tiềm năng sư phạm to lớn hỗ trợ tích cực trong giảng dạy, học tập: Khả năng tăng tốc độ truyền tải thông tin, thực hiện phương pháp dạy học trực quan, thực nghiệm, tạo những “vùng hợp tác sinh động” giữa thày và trò, tạo khả năng hình thành, củng cố tri thức, rèn luyện kỹ năng làm việc, học tập, sự khéo léo của đôi tay,đôi chân, bồi dưỡng khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tạo ra hứng thú lôi cuốn người học, tiết kiệm thời gian trên lớp, cải tiền các hình thức lao động sư phạm, tạo khả năng tổ chức một cách khoa học và điều khiển hoạt động giáo dục. 7 Ngày nay chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình, Sách giáo khoa, phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, tăng cường công tác tự lập, thực hành của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo, học sinh là chủ thể tự mình tìm ra kiến thức thông qua sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Việc đổi mới theo xu hướng đó đòi hỏi phải sử dụng rộng rãi các TBGD , nếu không có TBGD thì không thể chuyển tải được nội dung của sách giáo khoa và cũng không thể đổi mới được phương pháp dạy và phương pháp học. Vậy, TBGD là một trong những tiền đề quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học. Tóm lại: TBGD có vai trò quan trọng đối với quá trình dạy học. Sử dụng TBGD đảm bảo thông tin về các hiện tượng , đối tượng nghiên cứu đầy đủ và chính xác hơn, làm cho chất lượng dạy và học cao hơn, giúp thoả mãn trong phạm vi tối đa và phát triển hứng thú nhận thức của học sinh. Sử dụng TBGD sẽ nâng cao tính trực quan của dạy học, mở rộng khả năng tiếp cận với các sự vật và hiện tượng. Sử dụng TBGD sẽ gia tăng cường độ lao động học tập của học sinh và do đó cho phép nâng cao nhịp độ nghiên cứu tài liệu giáo khoa, cho phép học sinh có điều kiện tự lực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Thông qua hành động trên TBGD rèn luyện cho các em tính cẩn thận tỉ mỉ chính xác và phát triển tư duy khoa học, giáo dục ý thức giữ gìn đồ vật và bảo vệ môi trường…góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. 2.Thực trạng về TBGD và công tác quản lý, sử dụng TBGD ở trường Tiểu học Quyết Thắng. * Thực trạng về trang bị TBGD : Việc trang bị TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi công tác chủ yếu là do cấp phát từ trên xuống theo chỉ tiêu, kế hoạch định sẵn. Nhà trường có mua sắm các phương tiện dạy học hiện đại và huy động giáo viên tự làm. Từ năm học 20022003, thực hiện việc đổi mới chương trình sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học, nhà trường được cấp các danh mục TBGD từ lớp 1 đến lớp 5 theo quy định chung. 8 Những TBGD được cấp phát chủ yếu là những TBGD thô sơ, đơn giản như: tranh ảnh, sách giáo khoa, một số bộ mẫu chữ viết, bảng nỉ, bộ dụng cụ học nhạc, bộ dụng cụ đo đạc,… Tuy nhiên những TBGD được cấp số lượng còn quá ít, không đủ cho các lớp : + Môn Toán lớp 1: các mô hình con vật, hoa …bằng bìa rời có gắn nam châm phía sau để khi dạy gắn vào các mô hình của bài dạy còn thiếu rất nhiều. + Toán lớp 4: Đồ dùng dạy phần kiến thức về phần biểu đồ không có. + Phân môn Tâp đọc, Kể chuyện, Tập làm văn của môn Tiếng Việt, môn Đạo đức lớp 1,2,3,4,5 còn thiếu rất nhiều tranh ảnh minh hoạ phục vụ các bài dạy. + Môn TN - XH và Khoa học- Lịch sử+ Địa lí ở các lớp 1,2,3,4,5 một số chương, phần chưa có đủ đồ dùng. Nhà trường cũng có kế hoạch mua sắm thêm một số trang thiết bị hiện đại phục vụ cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường như tăng âm, loa máy, đầu video, máy chiếu máy tính, máy ảnh, máy scan.... Đặc biệt trong năm học này nhà trường đã xây dựng được 4 phòng học thông minh…nhưng những thiết bị này phục vụ cho các hoạt động dạy và học các ngoại khoá, các buổi lễ, hội nghị có tác dụng thiết thực đối với từng tiết dạy. Ngoài ra hàng năm nhà trường cũng đã tổ chức thi làm đồ dùng dạy học , thiết kế bài giảng điện tử áp dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhưng quá trình bảo quản các thiết bị hiện đại còn hạn chế nên không thể sử dụng được lâu dài. Tóm lại, việc trang bị TBGD của nhà trường đầy đủ các TBGD hiện đại nên giáo viên có cơ hội được tiếp xúc với các thiết bị này nhưng bên cạnh còn một số giáo viên cao tuổi sử dụng TBGD hiện đại còn hạn chế do đó chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho việc dạy học trong giai đoạn hiện nay. * Thực trạng về việc sử dụng TBGD: Hiện nay nhà trường chủ yếu sử dụng các TBGD được cấp phát. Qua tìm hiểu thực trạng nhà trường thấy rằng: TBGD được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất là ở các môn Toán và Tiếng Việt lớp 1. Do học sinh lớp 1 còn nhỏ đòi hỏi giải thích kiến thức bằng trực quan là dễ hiểu nhất nên những bộ chữ học vần, bộ học toán, những tranh ảnh 9 minh hoạ được sử dụng rất hiệu quả. Ngược lại, TBGD các môn TN– XH, môn thể dục, các môn nghệ thuật ít được sử dụng, thậm chí có những giáo viên trong suốt năm học không sử dụng các TBGD này lần nào. Ở các lớp 2,3,4 TBGD được sử dụng chủ yếu nhất là các bảng gài, bảng nỉ, bộ chữ dạy tập viết, bộ biểu diễn toán. Các bộ tranh đạo đức, TN – XH, mỹ thuật, thủ công, các bộ tranh dạy tập làm văn, tập đọc, kể chuyện,… rất ít được sử dụng. Các TBGD môn Hát nhạc, Mỹ thuật do giáo viên dạy các môn này là giáo viên chuyên biệt, các TBGD này không để ở tủ mỗi lớp học nên giáo viên rất ngại sử dụng. Giáo viên hát nhạc lên lớp chủ yếu sử dụng đàn ócgan nhà trường có sẵn còn các bộ dụng cụ học nhạc dân tộc, bộ kèn, thanh phách, mõ song loan, trống hầu như không sử dụng đến. Đặc biệt là các đĩa CD âm nhạc lớp 3, 4 , băng đĩa dạy các môn học lớp 1 giáo viên sử dụng nhưng chưa thường xuyên. Như vậy, tình trạng dạy chay, học chay vẫn còn phổ biến, giáo viên vẫn quen với nếp cũ, lên lớp chủ yếu là thuyết trình, giảng giải, thày giảng – trò nghe. Giáo viên còn ngại sử dụng TBGD , còn cho rằng sử dụng TBGD mất thời gian, tốn công chuẩn bị, dành thời gian sử dụng TBGD để giảng giải và cho học sinh luyện tập vẫn hơn. TBGD chỉ được sử dụng có hiệu quả trong các giờ hội giảng, hội thi, trong các đợt thanh tra, kiểm tra của cấp trên và nhà trường. Cũng có giáo viên sử dụng TBGD dạy học nhưng hiệu quả lại chưa cao: có giáo viên chỉ đưa ra coi như giới thiệu TBGD chứ chưa khai thác được nội dung kiến thức, chưa giúp học sinh nhận biết kiến thức thông qua quan sát, thực hành trên TBGD; Có giáo viên chưa biết cách sử dụng TBGD hợp lý, đặt TBGD trên bàn hoặc treo trên bảng từ đầu đến cuối tiết học làm học sinh phân tán tư tưởng, không chú ý vào nội dung bài học. Sử dụng TBGD như thế không những không phát huy được tác dụng của TBGD, không phát huy được khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, tính tự giác, tích cực hoạt động của học sinh mà còn làm giảm hiệu quả sư phạm của TBGD, làm giảm chất lượng giáo dục của giờ học. * Thực trạng việc bảo quản TBGD: 10 Ở từng lớp đã được trang bị tủ riêng nhưng tủ này lại quá nhỏ chỉ có thể đựng một số sách vở, đồ dùng học tập của học sinh và một số TBGD phục vụ các môn Toán, Tiếng Việt mà giáo viên thường sử dụng, còn rất nhiều TBGD được để trong phòng thiết bị, thư viện. Trong phòng này tuy đã có một số tủ kính để sách vở và TBGD nhưng việc sắp đặt còn lộn xộn, chưa khoa học, thậm chí còn lẫn lộn chồng chéo. Các bộ tranh ảnh không có đủ chỗ để treo, có những bộ cuộn tròn để trong tủ, có bộ thì treo chồng lên nhau trên tường. Vì vậy, khi muốn lấy một TBGD nào đó thì rất khó khăn, mất thời gian. Các TBGD do không được bảo quản đúng cách, khí hậu Việt Nam nóng, ẩm, mưa nhiều nên rất dễ bị ẩm mốc, hỏng hóc, có khi còn bị mối mọt, một số thiết bị bằng gỗ bị cong vênh không còn giá trị sử dụng. Giáo viên phụ trách thiết bị, thư viện học đúng chuyên ngành xong vừa mới ra trường nên còn hạn chế về kinh nghiệm. Nhà trường chưa có điều kiện để trang bị các phương tiện chống ẩm mốc, chống mối mọt.Cuối mỗi năm học nhà trường đều có tổ chức kiểm kê nhưng cũng chỉ làm dưới hình thức đếm, rà soát lại xem có thiết bị nào thiếu, thiết bị nào hỏng mà không có kế hoạch bổ sung, sửa chữa, cũng không quy vào tinh thần trách nhiệm của ai. Máy vi tính và các thiết bị điện tử khác không có chế độ bảo quản riêng, không theo đúng quy trình kỹ thuật của nhà sản xuất, chưa có chế độ bảo dưỡng định kỳ nên thường xuyên hỏng hóc, phải sửa chữa. Nhà trường đã có sổ sách theo dõi mượn, trả TBGD của giáo viên nhưng nhân viên phụ trách thiết bị thư viện chưa quan tâm chú ý. Có giáo viên mượn TBGD mà không ghi vào sổ, có giáo viên mượn nhưng lại không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích, có TBGD giáo viên mượn không trả lại gây thất thoát, lãng phí. Nhiều khi giáo viên trả TBGD cũng không được kiểm tra lại mà cứ thế treo lên tường hoặc lại cuộn tròn cất vào tủ, do đó không phát hiện được hư hỏng nên không nêu cao được tinh thần trách nhiệm của giáo viên. Có thể nói, việc bảo quản TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi công tác chưa được chú trọng đúng mức, tình trạng hư hỏng, thất thoát, lãng phí dẫn đến kém 11 chất lượng và hiệu quả sử dụng còn xảy ra nhiều. Đây chính là vấn đề đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, nhân viên nhà trường cần quan tâm chú ý. * Thực trạng về công tác quản lý TBGD: Các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường cũng đã chú ý nhắc nhở, động viên giáo viên sử dụng TBGD trong quá trình dạy học, giúp giờ học thêm sinh động hấp dẫn, nâng cao chất lượng giáo dục nhưng việc làm này chưa được tiến hành thường xuyên, đôi khi mới chỉ là “ đánh trống, bỏ dùi”. Chưa đưa việc sử dụng TBGD thành tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên, chưa có những hình thức thi đua khen thưởng thích đáng để giáo viên tích cực sử dụng TBGD. Vì vậy, việc sử dụng TBGD chưa thực sự trở thành nền nếp. Mặt khác việc dạy chay đã gần như là truyền thống, là lối mòn khó phá bỏ, giáo viên rất ngại sử dụng TBGD khi lên lớp mà người quản lý lại ít quan tâm đến việc tìm hiểu lý do, tâm lý giáo viên nên TBGD chưa được sử dụng đúng với vai trò, chức năng của nó. Hàng năm nhà trường đã có kế hoạch đầu tư trang bị CSVC và TBGD nhưng chủ yếu chỉ là kế hoạch về xây dựng CSVC còn TBGD đa số vẫn trông chờ việc cấp phát từ trên. Nhà trường chưa có kế hoạch cụ thể về trang bị, bảo quản và sử dụng TBGD. Chưa chú ý đến việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên làm công tác thiết bị và bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: Công tác TBGD của trường Tiểu học nơi tôi công tác còn một số bất cập, hạn chế như trên có thể nói một phần là do điều kiện khách quan nhưng phần lớn vẫn là do những nguyên nhân chủ quan từ phía nhà trường. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan có thể được kể đến như sau: * Nguyên nhân khách quan: Để đáp ứng yêu cầu của sự đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta cần có nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục lớn hơn rất nhiều song do nguồn ngân sách còn hạn hẹp nên Nhà nước không đủ kinh phí để có thể trang bị đồng bộ TBGD cho tất cả các trường học trên cả nước. 12 Trong hoàn cảnh chung của đất nước như vậy, CSVC và TBGD của nhà trường phụ thuộc vào ngân sách của các địa phương là chủ yếu. Hơn nữa đời sống kinh tế của nhân dân cũng ở mức trung bình nhưng nhận thức của họ về công tác giáo dục còn chưa đầy đủ nên việc vận động nhân dân đầu tư trang bị hệ thống TBGD cho nhà trường rất khó khăn. Như phần thực trạng đã nêu ở trên số lượng thiết bị còn thiếu nhưng vấn đề thiếu còn có khả năng khắc phục được, chủ yếu là do chất lượng của một số TBGD không đảm bảo, thiết kế không hợp lý: + Phân môn Tập viết của lớp 3, bộ chữ mẫu dùng minh hoạ cho dạy tập viết cỡ chữ không phù hợp với cỡ chữ trong chương trình học của học sinh. + Môn Âm nhạc lớp 3 : Tranh minh hoạ không gắn vào từng bài cụ thể nên không tiện sử dụng, kèn Mêlôdion ( Hàn Quốc) quá lớn, giáo viên thổi được đã là khó, học sinh lớp 3 không thể đủ hơi để thổi. + Môn TN –XH lớp 3: Mô hình trái đất quay quanh mặt trời, mặt trăng quay quanh trái đất rất cồng kềnh, khó sử dụng, cần phải có phòng tối, có rèm che thì sử dụng mới đạt hiệu quả. + Tranh minh hoạ phân môn Kể chuyện lớp 4 các bức tranh ứng với từng đoạn của câu chuyện đáng lẽ phải được trình bày riêng thành từng bức rời nhau thì lại được trình bày chung trên cùng một tranh khổ to, như vậy rất bất tiện trong việc sử dụng, khi hướng dẫn học sinh kể từng đoạn học sinh dễ bị phân tán sang đoạn khác. + Môn Khoa học lớp 4 : Ở các tranh dạy bài 37, 23,60 các phiếu ghi tên các cơ quan, bộ phận của từng tranh còn quá nhỏ, không tiện sử dụng; Chương “Ánh sáng” đèn pin để dạy bài “Ánh sáng” hơi nhỏ nên khi làm thí nghiệm học sinh khó quan sát, khó phát hiện ra đường chuyền của ánh sáng. v. v… Với một hệ thống TBGD thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và thời gian cung ứng lại chậm như vậy gây tâm lý không tốt trong giáo viên, làm họ ngại sử dụng vì lo nếu TBGD không đảm bảo sẽ mất thời gian mà lại không mang lại hiệu quả cho giờ học. *Nguyên nhân chủ quan: 13 Sự nhận thức chưa đúng của giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý. Chưa nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của TBGD trong quá trình dạy học. Nếp nghĩ và thói quen dạy chay, ngại đổi mới dường như đã hằn sâu trong họ nên họ rất ngại sử dụng TBGD khi lên lớp. Đời sống của giáo viên cũng tương đối ổn định nhưng rất ít giáo viên đủ điều kiện để sắm những TBGD cho riêng. Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan trên nên hiệu quả sử dụng TBGD ở trường Tiểu học chưa cao, đòi hỏi phải đổi mới công tác quản lý TBGD bàng những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD và góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. 3. Một số biện pháp quản lý của Phó Hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị giảng dạy ở trường Tiểu học. 3.1. Mục tiêu của giải pháp. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD, tôi nhận thấy rằng TBGD chịu sự chi phối của nội dung và phương pháp dạy học. Nội dung dạy học quy định những đặc điểm cơ bản của TBGD bởi lẽ TBGD phải tính đến một cách toàn diện các đặc điểm của nội dung, chương trình. Mỗi TBGD phải được cân nhắc, lựa chọn để đáp ứng được nội dung, chương trình, đồng thời cũng phải thoả mãn các yêu cầu về khoa học sư phạm , kinh tế, thẩm mỹ và an toàn cho giáo viên và học sinh khi sử dụng nhằm đạt kết quả mong muốn. Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, nhiều tri thức đem dạy ở trường phổ thông nhanh chóng bị lạc hậu vì vậy chúng ta đang tiến hành đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học phải theo xu hướng tích cực hoá quá trình nhận thức của học sinh, năng lực thực hành, năng lực tự nghiên cứu. Muốn đạt được điều đó thì không có cách nào khác là phải tăng cường trang bị và đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị giảng dạy trong đó chú trọng phương tiện nghe nhìn và ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Như vậy công tác quản lý TBGD càng khó khăn, nặng nề hơn, đòi hỏi người quản lý thiết bị dạy học ở nhà trường phải nắm chắc lý luận về TBGD, có quyết tâm cao chỉ đạo việc trang bị, sử dụng và bảo quản TBGD bằng những biện pháp 14 phù hợp thì mới đem lại hiệu quả cao.Tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài “ Phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học”, tôi mạnh dạn đưa ra các biện pháp quản lý của Phó hiệu trưởng với công tác quản lý thiết bị giảng dạy ở trường Tiểu học như sau: 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp a. Đẩy mạnh việc bồi dưỡng nghiệp vụ sử dụng TBGD, cách khai thác sử dụng TBGD: Sử dụng là mục tiêu cơ bản và là mục tiêu cuối cùng của toàn bộ công tác thiết bị nhà trường. Quan điểm này rất quan trọng và cần được thông suốt trong toàn bộ đội ngũ những người làm công tác TBGD. Nếu TBGD không được sử dụng thì việc đầu tư trang bị, xây dựng hệ thống TBGD cũng trở thành thừa. Bản thân TBGD chỉ là vật vô tri, vô giác, nếu con người không sử dụng thì không thể phát huy được tác dụng và khả năng sư phạm của nó. Nhưng nếu sử dụng sai hoặc không đúng mục đích thì có thể sẽ phản tác dụng. Để sử dụng TBGD có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về yêu cầu sử dụng TBGD. Cần hiểu biết về TBGD , kỹ thuật sử dụng chúng và hiểu biết sâu sắc về phương pháp dạy học trực quan.: sử dụng TBGD với mục đích gì, vào lúc nào, trong thời gian bao lâu, học sinh cần tham gia hoạt động như thế nào?… Sử dụng TBGD có hiệu quả để tránh những lãng phí về kinh phí, vật tưkhoa học - kỹ thuật - giáo dục. Sử dụng TBGD còn nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang có sử dụng các TBGD hiện đại như: máy chiếu, máy vi tính, phòng học thông minh…Khi nhà trường đã trang bị các thiết bị này thì yêu cầu giáo viên phải nắm được tối thiểu về cấu tạo, chức năng và cách vận hành, sử dụng chúng. Công tác TBGD phải làm thường xuyên, liên tục và toàn diện từ khâu trang bị, sử dụng và bảo quản. Trong những vấn đề đó nổi cộm lên là công tác tập huấn cho giáo viên sử dụng TBGD phục vụ cho bài giảng, và tăng cường việc sử dụng TBGD trong dạy học. *Tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ sử dụng TBGD cho giáo viên: 15 Nhà trường cần có nhiều hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ sử dụng TBGD cho giáo viên: + Với cán bộ phụ trách TBGD cần nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng sử dụng TBGD có thể về triển khai đại trà cho giáo viên nhà trường. + Trong thời gian bồi dưỡng chuyên môn hè cho giáo viên, nhà trường cũng có thể kết hợp mở lớp tập huấn kỹ năng nghiệp vụ sử dụng TBGD cho toàn bộ giáo viên trong trường, có thể mời các chuyên gia về về báo cáo về các vấn đề chuyên môn, kỹ thuật, học thuật,…và tập huấn cho giáo viên cách sử dụng, vận hành các TBGD hiện đại. + Có thể kết hợp với các trường bạn trong cụm mở những cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm sử dụng TBGD vừa mang tính học hỏi lẫn nhau, vừa mang tính đoàn kết, giúp đỡ nhau trong chuyên môn, từ đó tạo thành ý thức tự giác, phong trào sử dụng TBGD trong quá trình dạy học. + Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của các tổ, khối, cần đưa nội dung trao đổi nghiệp vụ sử dụng TBGD, có thể làm mẫu, thao giảng với từng môn học, từng tiết học (sử dụng TBGD vào lúc nào, bố trí trình bày sao cho hợp lý, mức độ và cường độ sử dụng ra sao), từ đó đúc rút thành kinh nghiệm. Ban giám hiệu nhà trường cần sưu tầm và xây dựng những bộ tài liệu để hỗ trợ giải quyết các câu hỏi về chuyên môn, kỹ thuật, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ cho giáo viên. Phát huy sáng kiến kinh nghiệm nội bộ. * Bồi dưỡng sử dụng TBGD thường xuyên trong quá trình dạy học: Để nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD, khi giáo viên đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của TBGD trong quá trình dạy học, đã có kỹ năng nghiệp vụ sử dụng TBGD thì việc làm tiếp theo hết sức cần thiết đó là làm sao để nâng cao tần suất sử dụng các TBGD, TBGD phải được sử dụng thường xuyên và có hiệu quả, như vậy việc đầu tư trang bị mới không lãng phí vô ích. * Biện pháp hành chính: Nhà trường cần yêu cầu giáo viên nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy chế quản lý tài sản, tài chính của Nhà nước. Ngay từ đầu năm học, nhà trường cũng cần xây dựng được những quy định về TBGD và sử dụng TBGD nhằm thiết lập được nề nếp, thói quen sử dụng TBGD của giáo viên trong trường. Những quy định này cần được thông qua hội đồng sư 16 phạm nhà trường sau đó làm thành văn bản, trở thành quy định bắt buộc, nếu vi phạm sẽ bi xử lý theo quy định. Việc sử dụng TBGD được xét thành tiêu chí đánh giá thi đua giáo viên. Việc sử dụng TBGD phải được quản lý một cách chặt chẽ, kể cả những TBGD để tại phòng học của các lớp, kể cả các TBGD giáo viên mượn tại phòng thiết bị, hàng tuần tất cả các giáo viên đều phải có phiếu đăng ký sử dụng TBGD trong tuần (nộp cho cán bộ phụ trách thiết bị vào cuối tuần trước). Cán bộ phụ trách thiết bị dán phiếu này ngay tại phòng thiết bị để tiện theo dõi. * Mẫu phiếu đăng ký sử dụng TBGD : Tuần: ………… Từ ngày: ……….. đến ngày:……………. Họ và tên giáo viên:………………………………………. Thứ ngày Tên TBGD cần sử dụng Tên bài dạy Môn Lớp Mặt khác, hàng ngày giáo viên cần ghi nhật ký sử dụng TBGD vào sổ nhật ký để tiện theo dõi. Cũng cần chú ý nâng cao vai trò của tổ chuyên môn trong việc sử dụng TBGD. Tổ trưởng tổ chuyên môn chính là cánh tay nối dài của Phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn có vai trò theo dõi, nhắc nhở các thành viên trong tổ mình sử dụng TBGD thường xuyên, việc làm này rất có hiệu quả bởi chính trong tổ sẽ biết rõ ngày nào, dạy bài gì, cần sử dụng TBGD nào họ sẽ nhắc nhở nhau và giúp đỡ nhau để cùng sử dụng TBGD có hiệu quả. * Biện pháp thi đua: Biện pháp này sẽ phát huy nhiều tác dụng nếu được sử dụng đúng lúc, đúng mục đích và công bằng, khách quan. Tổ chức tốt phong trào thi đua sử dụng TBGD có hiệu quả trong mỗi tiết dạy hàng ngày. Trong các kỳ hội giảng, thao giảng cũng cần đặt tiêu chí “tiết dạy có sử dụng TBGD hiệu quả” lên hàng đầu.Phó hiệu trưởng đánh giá giờ dạy của giáo viên, bên cạnh những căn cứ về mục đích, yêu cầu, nội dung kiến thức,…còn phải đánh giá khâu chuẩn bị bài giảng (trong đó có sự chuẩn bị về TBGD )và khâu sử dụng TBGD trong dạy học. Qua đó có thể nhận rõ giáo viên nào có ý thức, có kỹ 17 năng sử dụng TBGD, giáo viên nào còn yếu về kỹ năng nghiệp vụ và có kế hoạch bồi dưỡng thêm ra sao. Sau mỗi đợt thi đua cần có chế độ khen thưởng động viên kịp thời, thoả đáng kể cả về vật chất lẫn tinh thần. Đồng thời cũng cần có biện pháp nhắc nhở hợp lý đối với những giáo viên không có ý thức, ngại sử dụng TBGD. Làm như thế mới tạo được sự công bằng, khách quan, khuyến khích được sự tham gia nhiệt tình, tích cực của mọi giáo viên. Chúng ta biết rằng, nếu TBGD không được sử dụng vào hoạt động dạy học thì hiệu quả sư phạm của nó chỉ là con số không. Khi đó mọi sự trang bị, đầu tư cho công tác TBGD đều vô nghĩa. Do đó cần tăng cường sử dụng một cách thường xuyên, liên tục và hiệu quả cao. b. Chỉ đạo tích cực công tác bảo quản TBGD: Hiệu quả sử dụng và khai thác TBGD phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường đối với việc đổi mới phương pháp dạy và học, đối với công tác tổ chức quản lý nghiệp vụ TBGD, khả năng và trình độ chuyên môn quản lý của cán bộ phụ trách TBGD, sự nhiệt tình và trách nhiệm của các giáo viên trong nhà trường, cách bảo quản, bố trí sắp xếp các TBGD,…Như vậy, Một trong những điều kiện để sử dụng, khai thác có hiệu quả TBGD là TBGD phải được bảo quản tốt. Mặt khác, tất cả các TBGD (từ đơn giản đến hiện đại) đều có thể bị hỏng hóc hay mất mát qua quá trình sử dụng và qua thời gian. Cần tăng cường việc bảo quản TBGD để kéo dài tuổi thọ và giá trị sử dụng của nó. Bảo quản TBGD đạt được hai mục đích: bảo vệ được TBGD, loại trừ hoặc hạn chế về cơ bản những hư hỏng không đáng có và đảm bảo hiệu quả, thuận lợi cho việc sử dụng. Muốn bảo quản TBGD tốt người cán bộ quản lý cần chỉ đạo cán bộ phụ trách thiết bị làm tốt công việc của họ, cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (kho tàng, phòng thiết bị, Phòng học bộ môn,…) và hệ thống sổ sách theo dõi, quản lý. *. Thiết kế cấu trúc phòng thiết bị và các loại sổ sách cần thiết: Nhà trường cần đầu tư xây dựng phòng thiết bị riêng, phòng thiết bị cần đảm bảo các yêu cầu sau: 18 + Phòng TBGD phải được bố trí ở nơi thoáng mát, cao ráo và sáng sủa, thuận tiện cho việc đi lại của giáo viên và học sinh nhà trường. Phòng phải đảm bảo an toàn, kiên cố, không dột nát, đủ ánh sáng để tránh ẩm mốc trong phòng cần trang bị quạt thông gió, bình cứu hoả, thuốc chống mối mọt, gián, chuột,… + Bên trong phòng phải phân ra nhiều lô hoặc nhiều góc. Mỗi lô dành cho thiết bị của một lớp, mỗi lớp lại chia nhiều ngăn chứa thiết bị, mỗi ngăn là một vị trí thiết bị của từng môn. Sắp xếp như vậy, khi người cán bộ thiết bị hoặc giáo viên cần sử dụng thiết bị của môn nào, của lớp nào có thể tìm thấy ngay không phải mất công tìm kiếm. + Các TBGD được đánh mã số theo sơ đồ. Nghĩa là mỗi thiết bị đã nằm trong phòng thiết bị đều có tên, có mã số và vị trí nhất định. Như vậy rất tiện cho việc lấy ra sử dụng và khi cất cũng để đúng vị trí. Ngăn nắp, khoa học là một trong những nguyên tắc cần thiết của bảo quản. + Áp dụng linh hoạt các kiểu sắp xếp thấp ở ngoài, cao ở trong, bé ở ngoài, to ở trong. Những đồ vụn vặt có thể để trong khay. Những đồ dùng thường xuyên sử dụng thì ưu tiên để ở vị trí dễ lấy nhất như xếp đặt ở phía ngoài, hoặc ở vị trí vừa tầm lấy. Nếu TBGD là tranh ảnh, biểu bảng,…cần được treo vào các giá tự thiết kế gắn trên tường hoặc các giá treo theo từng phân môn. Tranh ảnh hiện nay được trang bị khá nhiều nên ngay từ đầu cần được phân theo chương trình, theo học kỳ, theo từng lớp, từng môn để dễ lấy, tránh sự quá tải cho các giá treo, đảm bảo thẩm mỹ để tạo tâm thế tốt cho giáo viên và học sinh. Tóm lại, TBGD để trong phòng cần thực hiện theo nguyên tắc dễ tìm, dễ thấy và dễ lấy. Sắp xếp TBGD theo nguyên tắc này người phụ trách thiết bị sẽ luôn đáp ứng được nhu cầu của giáo viên và học sinh một cách nhanh nhất. * Xây dựng hệ thống sổ sách: TBGD dạy học khi giáo viên mượn phải được ký vào sổ theo dõi mượn trả. Khi giáo viên trả TBGD cán bộ phụ trách thiết bị cần kiểm tra kỹ, nếu mất mát, hư hỏng cần có biện pháp xử lý kịp thời, cụ thể. Nếu coi thường công việc này sẽ dẫn đến thất thoát thiết bị, xếp đặt lộn xộn và như vậy sẽ mất nhiều công tìm kiếm cho các lần sử dụng tiếp theo. 19 Mẫu sổ theo dõi mượn, trả TBGD: Họ và tên người mượn Mục đích sử dụng Tên TBGD Ngày mượn Ký tên Ngày trả Ký tên Khi nhận các TBGD được cấp , hay thiết bị do nhà trường tự trang bị hoặc TBGD do giáo viên tự làm cán bộ phụ trách thiết bị cũng cần có sổ để nhập TBGD và thống kê được số TBGD hiện có. Mẫu sổ nhập thiết bị: Tên TBGD được trang bị Ngày Tình trạng của TBGD Người giao (ký tên) Số lượng Người nhận (ký tên) Cuối mỗi năm học ban CSVC, TBGD cùng cán bộ phụ trách thiết bị cần kiểm kê lại toàn bộ số TBGD nhà trường có, đánh giá được tình trạng của thiết bị và tần suất sử dụng theo mẫu sổ sau: Sổ theo dõi tình trạng TBGD : Tên TBGD Tình trạng Còn Mất Hỏng tốt Tần suất sử dụng ( Số lần Hiệu quả sử dụng Tốt Khá TB Yếu Đề xuất Hệ thống sổ sách dùng để giúp cán bộ thiết bị quản lý thiết bị tiện lợi hơn, nếu biết cách ghi chép khoa học thì khi tìm, khi kiểm tra cũng rất dễ dàng. Nhà trường cần trang bị cho phòng thiết bị một máy vi tính để tiện cho việc quản lý hệ thống TBGD trên máy. c.Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá việc xây dựng, sử dụng và bảo quản TBGD : Kiểm tra gồm điều tra, xem xét, đánh giá quá trình quản lý và sử dụng TBGD có hiệu quả, có phù hợp với mục tiêu, kế hoạch chuẩn mực, quy chế đã đề 20 ra hay không; chỉ ra những lệch lạc, từ đó có thể xác định lại phương hướng, mục tiêu, điều chỉnh, uốn nắn, giúp đỡ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng TBGD. Kiểm tra để tạo lập mối liên hệ thông tin ngược trong quản lý TBGD. Việc sử dụng TBGD trong quá trình dạy học phức tạp, đa dạng, phong phú song không được phép sai lầm. Do đó, Phó hiệu trưởng cần thường xuyên kiểm tra để phát hiện, phòng ngừa, đánh giá chính xác nhằm động viên, nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mục tiêu đề ra. Người cán bộ quản lý có thể kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ, không nhất thiết phải dự giờ, thăm lớp mới có thể nắm bắt được tình trạng sử dụng TBGD của giáo viên. Hiệu trưởng có thể xem mẫu phiếu đăng ký sử dụng TBGD của giáo viên đã được đăng ký tại phòng thiết bị sau đó có thể đột xuất kiểm tra một vài lớp, một vài giáo viên, qua đó có thể thấy rõ giáo viên có thực sự sử dụng TBGD hay không? Thông qua các buổi kiểm tra chuyên môn hay kiểm tra toàn diện giáo diên, Phó hiệu trưởng có thể nắm bắt được kỹ năng sử dụng, khai thác TBGD của giáo viên, cũng có thể nắm bắt được tình trạng của một số TBGD nhà trường hiện có. Cũng cần kiểm tra công việc của cán bộ phụ trách thiết bị thông qua việc kiểm tra sự sắp xếp phòng thiết bị, thông qua hệ thống sổ sách hay qua trao đổi với giáo viên. Nói chung, có nhiều hình thức để kiểm tra, nhưng quan trọng là sau khi kiểm tra Hiệu trưởng cần có những kết luận, đánh giá đúng mức, lấy đó làm cơ sở để xét khen thưởng và kỷ luật một cách phân minh rõ ràng. Thông qua kiểm tra giúp sửa chữa kịp thời hầu hết các lệch lạc có thể xảy ra đồng thời khuyến khích động viên cái tốt, truyền bá những kinh nghiệm hay trong thực tiễn. Làm như vậy mới phát huy được tác dụng của công tác kiểm tra. 3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp TBGD là điều kiện không thể thiếu trong quá trình dạy học. Vai trò và những khả năng sư phạm của nó đã được lý luận dạy học khẳng định. Phó hiệu trưởng phụ trách TBĐD dạy học phải là người có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vị trí, vai trò của TBGD trong mọi quá trình sư phạm của nhà trường, đồng thời làm 21 cho các thành viên của hội đồng sư phạm và học sinh thấy rõ mối quan hệ giữa TBGD với phương pháp và chất lượng dạy học và là người chịu trách nhiệm quản lý toàn diện TBGD, đồng thời là người có trách nhiệm bảo quản, sử dụng và phát huy hiệu quả của TBGD trong mọi vấn đề đặt ra bằng mọi biện pháp. Tham mưu với Hiệu trưởng nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân và chính quyền địa phương, huy động mọi nguồn lực để từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống TBGD đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Trang bị TBGD phải tiến hành đồng bộ với việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các điều kiện để sử dụng PTKTDH hiện đại.Cần bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tập huấn kỹ năng nghiệp vụ sử dụng, khai thác TBGD, tăng cường biện pháp hành chính trong việc sử dụng và bảo quản TBGD,…Tổ chức tốt các phong trào hội giảng hội học, phong trào tự làm và sưu tầm TBGD Thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm kê theo định kỳ và đột xuất, đặc biệt khi có những thay đổi về tổ chức, biến động do chủ quan hay khách quan. Thông qua kiểm tra đánh giá chính xác và khen thưởng chính đáng những tập thể và cá nhân có thành tích cao, kịp thời nhắc nhở, giúp đỡ giáo viên chưa có ý thức sử dụng TBGD, điều chỉnh kịp thời những thiếu sót, bất hợp lý trong công tác quản lý, làm cơ sở để xây dựng kế hoạch lần sau. 3.4. Kết quả Từ thực tế thực hiện trong năm học 2014 - 2015 của vấn đề nghiên cứu đã thu được kết quả là: - Tìm hiểu được cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của vấn đề. - Điều tra được thực trạng công tác quản lý thiết bị đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học. - Xây dựng được một số biện pháp giúp Phó hiệu trưởng nhà trường trong công tác quản lý thiết bị đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường Tiểu học. Với các biện pháp trên năm học 2014 - 2015 áp dụng tại trường tiểu học Quyết Thắng đã đạt được kết quả như sau: 22 - Cơ sở vật chất thiết bị đồ dùng dạy học được nhà trường đầu tư ngày càng hoàn thiện. - Giáo viên nhà trường đã tích cực sưu tầm và làm đồ dùng dạy học có giá trị sử dụng trong các tiết học. - 100% giáo viên đẫ sử dụng các thiết bị đồ dùng dạy học và 50% giáo viên nhà trường đã sử dụng phòng học thông minh trong các tiết học và đạt hiệu quả cao. - 100% giáo viên nhà trường thành thạo tin học, khai thác được các thông tin trên mạng và thiết kế được các Bài giảng điện tử để giảng dạy một cách có hiệu quả. - Hệ thống sổ sách theo dõi mượn trả đồ dùng dạy học khoa học, dễ theo dõi. - Đồ dùng dạy học trong phòng thiết bị được sắp xếp khoa học, gọn gàng, đễ tìm,dẽ lấy. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận: Qua nghiên cứu của bản thân, so sánh đối chiếu lý luận và thực tiễn của vấn đề, qua tìm hiểu thực trạng trường Tiểu học nơi tôi công tác, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp quản lý của Phó hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD trong nhà trường. Hy vọng với các biện pháp nêu trên, nhà trường có thể xem xét nghiên cứu và thực hiện dần từng bước để trong những năm tới nhà trường sẽ có được một hệ thống TBGD hoàn thiện và sử dụng, khai thác chúng một cách hiệu quả nhất góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, nâng cao uy tín và vị thế của nhà trường trong cộng đồng. 2. Kiến nghị. Để đề tài được thực hiện một cách thuận lợi, TBGD được sử dụng hiệu quả, tôi xin có một số ý kiến đề xuất sau: * Đối với các công ty sản xuất TBGD : - Cần sản xuất các TBGD đạt tiêu chuẩn về tính chính xác, tính thẩm mỹ, tính sư phạm, giá thành hợp lý và độ bền cao. - Sản xuất TBGD đồng thời với việc in ấn các tài liệu hướng dẫn sử dụng, khai thác TBGD. * Đối với cấp trường và giáo viên: 23 - Đảm bảo các điều kiện cần thiết như trong phần biện pháp đã đề cập. - Tăng cường giao lưu, học hỏi, tham khảo cách làm của trường bạn. Chủ động tiếp cận chương trình sách giáo khoa mới, các phương tiện dạy học hiện đại, các tài liệu tham khảo, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học với sử dụng TBGD. Mạo Khê, ngày 25 tháng 3 năm 2015 Người viết Hoàng Thị Thu Hà IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO - PHỤ LỤC 1. Trịnh Anh Cường - Quản lý CSVC và TBGD trong trường tiểu học – Giáo trình đào tạo cử nhân quản lý giáo dục tiểu học.Trường Cán bộ QLGD & ĐT.Hà Nội, 2005. 2. Trần Quốc Đắc (Tái bản lần thứ nhất – 2004 ). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng, sử dụng CSVC & TBGD ở trường phổ thông Việt Nam. 3. Hoàng Đức Nhuận Cải tiến TBGD nhằm đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông – TTKHGD SỐ 53. 4. Ngô Quang Sơn Vai trò của TBGD và việc đánh giá hiệu quả sử dụng TBGD trong quá trình dạy học tích cực. Thông tin quản lý giáo dục số 3 năm 2005. 5. Ngô Quang Sơn Quản lý CSVC & TBGD – Bài giảng lớp cử nhân quản lý Bắc Giang. 6. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX. 7. Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII. 9. Nghị quyết 40 - Quốc hội khoá X. 8. Luật hiáo dục, NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2005. 24 Sáng kiến kinh nghiệm của phó hiệu trưởng tiểu học
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tải về bản full |