Sáng kiến kinh nghiệm của phó hiệu trường Tiểu học

Bài viết về sáng kiến kinh nghiệm của Thầy Phó hiệu trưởng.

Đọc bài Lưu

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP “ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÍ, CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN”

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Để nâng cao chất lượng dạy học, các hoạt động đội ngủ quản lý của đơn vị, về việc quản lý chỉ đạo các hoạt động chuyên môn là vai trò rất quan trọng. Vì nó tạo được nhất quán đồng thuận trong sự đoàn kết gắn bó, sự hợp tác nhịp nhàng với nhau trong tập thể sư phạm của đơn vị, tạo ra được một môi trường thân thiện, nâng cao ý thức tự giác, ý thức trách nhiệm và thói quen làm việc có tổ chức kỉ luật, chấp hành tốt các quy định của đơn vị, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ chất lượng dạy và học học đạt hiệu quả cao.

Ngoài chất lượng dạy học ra chất lượng học của các em là hết sức quan trọng để đạt kết quả tốt thì đồi hỏi trước hết việc tổ chức các hoạt động chuyên môn của đơn vị phải đặt biệt quan tam. Vì đây là một trong những yếu tố rât quan trọng dẫn đên nâng cao chất lượng của đơn vị.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục hiện nay, cán bộ quản lý và giáo viên phải nắm chắc quy chế chuyên môn của ngành, không ngừng học hỏi, trao dồi chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học, quán triệt tốt nghiệp vụ, nhiệm vụ của nhà giáo theo điều lệ trường Tiểu học quy định. Đặc biệt toàn ngành đang tiếp tục thực hiện hai không với bốn nội dung: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc học sinh ngồi nhầm lớp. Cuộc vận động “ Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”.

Phong trào giúp đỡ và phụ đạo học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức và kĩ năng do Bộ giáo dục quy định; phong trào xanh, sạch , đẹp; phong trào trường học thân thiện và học sinh tích cực…

Nhằn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, chỉ tiêu năm học 2018-2019, trong đơn vị đã cụ thể hóa các văn bản của ngành giáo dục huyện Hồng Dân thành những trương trình hành động cụ thể của nhà trường ngay từ đầu năm học.

Trên cơ sở đó nhà trường tiến hành xây dựng kế hoạch cho riêng mình về cũng cố, nâng cao chất lượng đầu vào bậc tiểu học và nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh cho tất cả các khối lớp.

Từ những vấn đề trên bản thân tôi tiến hành tổ chức hội thảo rút ra được những nội dung cơ bản và những sáng kiến trong “ việc đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo hoạt động chuyên môn ” để nghiên cứu cụ thể như sau:

  1. NỘI DUNG

I.Thực trạng:

    1. Ưu điểm

- Trường tiểu học Nhà Lầu nhiều năm được công nhận là trường có tập thể tiến tiến. Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lí, chỉ đạo chuyên môn được lãnh đạo địa phương và lãnh đạo Phòng GD&ĐT đánh giá cao.

- Cán bộ quản lý bao gồm (hiệu trưởng, hiệu phó, tổ trưởng, tổ phó chuyên môn) đều có trình độ bằng cấp chuyên môn nghiệp vụ cao (Đại học và cao đẳng), có kinh nghiệm và tay nghề vững vàng, là giáo viên dạy giỏi từ cấp trường đến cấp huyện.

- Cán bộ quản lý rất tâm huyết với nghề, tận tụy với công việc được giao.

- Cán bộ quản lý có sức khỏe, có chí cầu tiến, dám nghĩ dám làm và giám chịu trách nhiệm.

2) Hạn chế

Trong công tác tổ chức các hoạt động sư phạm của đơn vị tuy nhiên đã được nhà trường thực hiện thường xuyên, nhưng tôi thấy rằng công việc này vẫn nảy sinh nhiều bất cập từ đó tạo sự đồng thuận chưa thống nhất trong cán bộ, giáo viên làm ảnh hưởng tinh thần đoàn kết trong sự phối hợp, hợp tác chưa nhịp nhàng, nguyên nhân chủ yếu của vấn đề là:

+ Các tổ chuyên môn, giáo viên và nhân viên xây dựng kế hoạch hoạt động chưa chặt chẽ, chưa khoa học và chưa thuyết phục, chưa phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị.

+ Việc phân công trách nhiệm, nhiệm vụ của từng thành viên chưa phù hợp cho từng đối tượng, từ đó nảy sinh bất cập, sự không đồng tình cao trong tập thể và cá nhân.

+ Quá trình tổ chức nhận xét qua từng hoạt động còn mang tính chung chung, không rõ ràng, cụ thể từ đó chưa phát huy tích cực đối tượng và hạn chế đối tượng tiêu cực tạo ra sự mất đoàn kết trong đơn vị, làm hạn chế chất lượng, hoạt động sư phạm trong nhà trường.

+ Do giáo viên còn mang nặng tình cảm, ngại ngùng ít phát biểu xây dựng từ đó ảnh hưởng đến cộng đồng, hợp tác nhau trong công việc và quá trình đóng góp ý kiến đồng nghiệp, để cùng nhau tiến bộ chưa thật sự mang tính hiệu quả cao.

+ Một số giáo viên còn thụ động chưa tự giác trong công việc nguyên nhân là chưa nhận thức rỏ vấn đề còn trông chờ, đùn đẩy nhau.

+ Trong đơn vị việc chấp hành nội quy, quy định ý thức tổ chức và kỉ luật trong đơn vị từng bước được ổn định tuy nhiên nhưng vẫn còn một số trường hợp chấp hành chưa tốt. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của một số cán bộ giáo viên, nhân viên, còn nể nang tình cảm đồng thời thiếu sự gương mẫu trong việc chấp hành tổ chức, kĩ luật các quy định của ngành và của đơn vị đề ra.

+ Hiện nay đơn vị đã xây dựng kế hoạch cụ thể nhà trường bước đầu thực hiện có hiệu quả cao như tập thể thầy, cô giáo và các cha mẹ học sinh chưa thường xuyên gặp gỡ, trao đổi bày giải tâm tư nguyện vọng,… để từ đó cùng nhau giải quyết vấn đề khó khăn, vướng mắt và tạo được niềm tin gần gũi và thân thiện nhau.

+ Một số giáo viên và học sinh chưa thật sự tiếp cận với môi trường mới còn ảnh hưởng với môi trường trước đây như cán bộ quản lý nói giáo viên nghe, giáo viên nói học sinh nghe và làm theo chỉ có thông tin là một chiều không có thông tin phản hồi ngược lại từ đó chưa rút được kinh nghiệm không phát huy được sự chủ động, sáng tạo và sự gần gũi thân thiện trong nhà trường.

+ Việc chỉ đạo cho giáo viên xây dựng nề nếp hoạt động chuyên môn cán bộ quản lý của trường chưa thật sự quan tâm, thể hiện là có chỉ đạo nhưng chưa có nội dung cụ thể nên dẫn đến giáo viên chưa phát huy chuyên môn riêng cho mình + Ý thức trách nhiệm của giáo viên không đồng điều từ đó hiệu quả giảng dạy của giáo viên chưa cao.

II. Từ thực trạng trên tôi đề xuất một số giải pháp “đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo hoạt động chuyên môn :

1. Xây dựng kế hoạch dạy học:

- Thay cho việc dạy học đang được thực hiện theo từng bài, từng tiết trong sách giáo khoa như hiện nay, các tổ chuyên môn căn cứ vào chương trình và sách giáo khoa hiện hành, lựa chọn nội dung để xây dựng các chủ đề dạy học phù hợp với việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong điều kiện thực tế của nhà trường. Trên cơ sở rà soát chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, xác định năng lực, phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong mỗi chủ đề hoặc bài học đã xây dựng.

- Tiến hành xây dựng kế hoạch lồng ghép, tích hợp cho mỗi môn hoc; chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng sống, hiểu biết xã hội..

- Thực hiện kế hoạch dạy học lịch sử, địa lí và văn hóa địa phương theo công văn số 956/SGDĐT-MN-TH Bạc Liêu ngày 15 tháng 9 năm 2015 về việc hướng dẫn sử dụng tài liệu văn hóa địa phương.

- Xây dựng kế hoạch dạy học cần đảm bảo các nguyên tắc: Nâng cao kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục của chương trình giáo dục tiểu học hiện hành; học sinh được cung cấp kiến thức, kỹ năng theo chuẩn chương trình giáo dục tiểu học; được hình thành, phát triển các phẩm chất, năng lực; đảm bảo tính logic của mạch kiến thức và tính thống nhất giữa các môn học và các hoạt động giáo dục; tổng thời lượng của các môn học không ít hơn thời lượng quy định trong chương trình giáo dục kèm theo quyết định 16 của BGD&ĐT.

2. Triển khai dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh:

- Tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực của học sinh dựa trên cơ sở chuẩn kiến thức, kỹ năng và theo hướng hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; dạy học sát đối tượng, chú trọng công tác phụ đạo HS chưa đạt chuẩn,bồi dưỡng HSNK, trong nội dung bài giảng cần có những phần nâng cao để học sinh được nâng lên đủ khả năng để phát huy năng khiếu; đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề; bảo đảm cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh; phối hợp tốt giữa làm việc cá nhân và theo nhóm; tăng cường thực hành, vận dụng vào thực tiễn, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học.

-Tăng tính chủ động, thái độ học tập tích cực của học sinh, khắc phục hoàn toàn cách dạy theo lối truyền thụ một chiều, tránh tình trạng cho học sinh ghi chép quá nhiều, thiếu trọng tâm. Kết hợp một cách linh hoạt các phương pháp dạy học, kết hợp có hiệu quả giữa PPDH truyền thống và PPDH hiện đại.

- Dạy học bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng; thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lí các hoạt động của giáo viên và học sinh; thiết kế câu hỏi hợp lý, tập trung vào trọng tâm và năng lực cần đạt của mỗi bài học, tránh nặng nề quá tải, chú ý liên hệ thực tế ở mỗi nội dung bài học.

- GV phải sử dụng ngôn từ chuẩn xác, trong sáng, sinh động, dễ hiểu, tác phong thân thiện, khuyến khích, động viên học sinh học tập. Dạy học phải thông qua các hoạt động học tập của học sinh, phải thể hiện mối liên hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh; không nên gây áp lực và không thiện cảm đối với học sinh tạo nên sự chai lỳ, thụ động, bất hợp tác từ phía học sinh, hoặc dẫn đến tình trạng bỏ học.

- Bồi dưỡng năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng sáng tạo của học sinh, rèn luyện khả năng tự học cho học sinh. Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập theo định hướng phát triển năng lực. Tổ chức dạy học bằng nhiều hình thức trong hoặc ngoài lớp học, coi trọng giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh học tập ở nhà hoặc ngoài nhà trường.

- Mỗi giáo viên phải chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy từ việc soạn bài đến việc giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi đối tượng học sinh, các hoạt động dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh phải được thể hiện trong bài soạn. Sử dụng PPDH một cách hợp lý, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với đặc trưng môn học, nội dung, tính chất của mỗi bài học.

-Thiết kế và hướng dẫn cho học sinh thực hiện các bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kỹ năng, hướng dẫn sử dụng các đồ dùng dạy học, tổ chức có hiệu quả các giờ thực hành, hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học giải quyết các bài tập và những tình huống trong thực tiễn.

- Chú ý tích hợp, lồng ghép giáo dục đạo đức, học 5 điều Bác Hồ dạy, giáo dục tuyên truyền về biển đảo…

- Mỗi giáo viên phải thường xuyên đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, biết tự đánh giá năng lực giảng dạy của bản thân nhằm có sự điều chỉnh cho phù hợp theo hướng có lợi cho học sinh ( Phân tích tiết dạy theo hướng hoạt động học của học sinh).

3. Đổi mới phương pháp KTĐG định hướng phát triển năng lực học sinh:

- Thực hiện đổi mới KTĐG theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, thể hiện ở các hình thức KTĐG đều hướng tới phát triển năng lực học sinh theo đặc thù từng môn học. Chú ý việc phân tích kết quả kiểm tra, so sánh kết quả kiểm tra giữa các lớp, qua đó điều chỉnh hoạt động giảng dạy và học tập.

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc ra đề kiểm tra theo ma trận chung cho các loại bài kiểm tra riêng và chung. Thực hiện nghiêm túc và hiệu quả quy trình ra đề.

- Nâng cao chất lượng đề kiểm tra thông qua việc thiết lập ma trận đề, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng. Đề kiểm tra phải ở 4 mức độ theo thông tư 22 “Biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng linh hoạt sáng tạo”.

- Kết hợp một cách hợp lý giữa tự luận và trắc nghiệm giữa kiểm tra lý thuyết và kiểm tra thực hành trong mỗi đề kiểm tra; tăng cường rèn luyện kỹ năng thực hành, trãi nghiệm cho học sinh đối với các môn học.

- Đối với môn Tiếng Anh cần thực hiện nghiêm túc tinh thần: học Tiếng Anh theo chương trình của bộ quy định.

- Thực hiện việc chấm bài, trả bài nghiêm túc. Chấm bài không bỏ sót lỗi, có lời nhận cụ thể, có nhận xét, động viên sự cố gắng tiến bộ và những thiếu sót, biện pháp khắc phục cho học sinh; trả bài phải giúp học sinh thầy được nguyên nhân thiếu sót, cho điểm kết hợp giữa đánh giá kết quả bài làm với theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua kết quả đánh giá thường xuyên.

- Các giáo viên phải xác định được năng lực đầu ra cần đạt của mỗi tiết học hay chủ đề, khối lớp sau khi giảng dạy nhằm tiến hành KTĐG đúng thực chất.

- Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ là việc xem học sinh học được cái gì mà quan trọng hơn là biết học sinh học như thế nào, có biết vận dụng không.

4. Đổi mới hoạt động tổ chuyên môn:

- Trên cơ sở kế hoạch dạy học đã được duyệt, tổ chuyên môn, giáo viên có -thể thiết kế tiến trình dạy học cụ thể cho mỗi chủ đề mà không nhất thiết phải theo bài/tiết trong sách giáo khoa. Mỗi chủ đề có thể được thực hiện ở nhiều tiết học, mỗi tiết có thể chỉ thực hiện một hoặc một số bước trong tiến trình sư phạm của bài học. Các nhiệm vụ học tập có thể được thực hiện ở trong hoặc ngoài giờ trên lớp. Ngoài việc tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp, cần chú trọng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở ngoài lớp học và ở nhà nhằm để hỗ trợ thêm cho các em.

- Tổ chức thực hiện dạy học và dự giờ theo kế hoạch của nhà trường. Trên cơ sở các chuyên đề dạy học đã được xây dựng, tổ chuyên môn phân công giáo viên thực hiện bài học để dự giờ, phân tích và rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi dự giờ, cần tập trung quan sát hoạt động học của học sinh thông qua việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ học tập đảm bảo các yêu cầu về hướng dẫn đánh giá xếp loại giờ dạy mới.

- Tổ chức hội thảo tại tổ bàn về các biện pháp giảng dạy có hiệu quả và cách ra đề kiểm tra cho phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở từng môn.

- Thống nhất xây dựng nội dung các chuyên đề, tập trung các chuyên đề khó và các chuyên đề mang lại hiệu quả thiết thực cho kết quả học tập của học sinh.

- Sinh hoạt tổ chuyên môn đi sâu vào phân tích đánh giá các giờ dạy, phân tích tính hiệu quả các biện pháp đổi mới trong mỗi tiết dạy, phân tích đánh giá các đề kiểm tra và so sánh kết quả kiểm tra giữa các lớp. Thống nhất việc soạn giáo án ở từng môn, cách sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả, tự làm đồ dùng dạy học, thực hiện việc lồng ghép các giáo dục, xác định năng lực đầu ra ở mỗi môn.

- Xây dựng ngân hàng đề kiểm tra ở mỗi tổ chuyên môn thông qua việc chắt lọc các đề hay tại tổ và tham khảo đề kiểm tra ở các trường khác hay trên mạng. Mỗi giáo viên phải có ít nhất 01 đề kiểm tra/lần kiểm tra và nộp cho PHTCM duyệt.

- Mỗi tổ chuyên môn đăng ký tổ chức thao giảng mẫu 01 tiết/học kỳ/1 giáo viên về đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

- Tổ chức kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các quy chế chuyên môn, kiểm tra các loại sổ của giáo viên, việc lên lớp, vào điểm, đánh giá, nhận xét học sinh và việc thực hiện kế hoạch chung của tổ.

5. Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động đổi mới PPDH-KTĐG:

- Ngoài công tác kiểm tra của phòng giáo dục, nhà trường sẽ tiến hành kiểm tra việc thực hiện công tác đổi mới 2 lần/học kỳ thông qua kiểm tra hồ sơ CM, kiểm kiểm tra hoạt động sư phạm, kiểm tra đột xuất các tiết dạy, kiểm tra chất lượng đề kiểm tra, kết quả kiểm tra và so sánh kết quả kiểm tra giữa các lớp.

- Tổ chuyên môn tiến hành kiểm tra thường xuyên hằng tháng và báo cáo kết quả cho lãnh đạo nhà trường tại các buổi họp .

- Tăng cường công tác dự giờ, góp ý về các biện pháp đổi mới PPDH và KTĐG. Tiến hành kiểm tra công tác tổ chức kiểm tra chung, coi thi, chấm bài của giáo viên.

- Kiểm tra việc đánh giá, nhận xét học sinh của giáo viên vào cuối mỗi học kỳ.

- Cuối học kỳ, cuối mỗi năm học tổ chức sơ kết, tổng kết việc triển khai kế hoạch nhằm điều chỉnh những hạn chế, phát huy những điểm mạnh trong thời gian tới.

-Kết quả đổi mới PPDH-KTĐG theo định hướng phát triển năng lực học sinh là một trong những tiêu chí để đánh giá xếp loại chuẩn nghề nghiệp giáo viên vào cuối năm học.

III.Từ những thực trạng và giải pháp nêu trên đơn vị đã đạt kết quả sau:

Qua thực hiện xây dựng quản lý chuyên môn quản lý dạy học trường Tiểu học Nhà Lầu xây dựng được một tập thể nhà trường đoàn kết, nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, yêu nghề mến trẻ, hết lòng vì học sinh thân yêu, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, chú trọng đến hiệu quả không còn tình trạng dạy qua loa.

Xóa bỏ dần việc làm không còn phù hợp, xây dựng nề nếp quản lý chuyên môn theo phương pháp đổi mới trên cơ sở chỉ đạo của phòng giáo dục và đào tạo và tình hình thực tế của đơn vị.

Giáo viên có ý thức của tầm quan trọng xây dựng nề nếp quản lý chuyên môn và quản lý học tập của học sinh, nên không ngại hao tốn thời gian và công sức, cố gắng vận dụng hiểu biết của mình vào công tác giảng dạy thực tế trên lớp.

Giáo viên không cần dành riêng thời gian mà có thể lồng ghép vào các tiết học, giờ sinh hoạt ngoại khóa,… Dễ thực hiện, dễ nhận thấy sự tiến bộ trong sinh hoạt chuyên môn của các tổ và trong nề nếp học tập của học sinh. Phù hợp với nhận thức xã hội, được mọi người ủng hộ.

Học sinh sớm được hình thành ý thức, hành vi tốt, có nề nếp song song với việc dạy kiến thức. Giáo viện lớp dạy chữ, dạy có trách nhiệm cao sẽ tạo cho nhà trường một thế hệ học sinh vừa giỏi kiến thức , có kĩ năng và thái độ, đặt biệt là các em phát huy tối đa năng lực học tập của các em. Đó cũng là cách góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.

Là điều kiện tốt cho giáo viên trau dồi kiến thức, có ý thức tự hoàn thiện bản thân hơn từ đó giáo dục học sinh tốt hơn.

Trên cơ sở đó có nhiều giáo viên chủ nhiệm lớp có nhiều sáng tạo trong khâu xây dựng nề nếp giảng dạy và học tập của học sinh.

Bảng kết quả chất lượng học sinh cuối học KÌ I.

Toán và Tiếng Việt

Học kì I

TSHS

Chất lượng hai môn Toán và Tiếng Việt

2018-2019

Môn: Toán

Môn: Tiếng Việt

Khối

Điêm

10-9

Điêm

8-7

Điêm

6-5

Điêm

Dưới 5

Điêm

10-9

Điêm

8-7

Điêm

6-5

Điêm

Dưới 5

Một

104

48

34

18

4

68

23

11

2

Hai

65

27

28

8

2

30

22

10

3

Ba

58

34

16

7

1

30

17

3

Bốn

87

38

37

10

2

41

21

22

3

Năm

63

38

16

8

1

24

24

15

Tổng

377

185

131

45

10

201

107

55

8

Năng lực và phẩm chất

Trong học kì I không có em nào kết quả là C mà tất cả học sinh lớp đạt từ Đ trở lên theo 7 nội dung Bộ giáo dục quy định nhận xét năng lực và phẩm chất học sinh tiểu học.

Qua nhiều năm quản lý chỉ đạo công tác chỉ đạo các hoạt động chuyên môn bản thân tôi rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:

Ngay vào từ đầu năm học làm tham mưu với hiệu trưởng tổ chức quán triệt các văn bản có liên quan đế chuyên môn do Bộ, Sở, Phòng ban hành mời tất cả cán bộ, giáo viên và nhân viên tham dự để rút kinh nghiệm và đưa ra giải pháp tốt nhất. Từ đó tổng hợp ý kiến và đưa ra giải pháp chỉ đạo khả thi.

Chỉ đạo cho giáo viên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh nhằn có biện pháp chủ nhiệm tốt hơn

Thường xuyên phối hợp với gia đình và có nhiều biện pháp giúp đỡ các em ngay đầu năm học để tạo nề nếp học tập tốt cho các em.

Thường xuyên dự giờ thăm lớp giáo viên dạy lớp gớp ý tư vấn kịp thời qua từng tiết dạy.

Sáng kiến có khả năng áp dụng tất cả các trường Tiểu học trên địa bàn huyện Hồng Dân đặc biệt là đối với các trường có điều kiện khó khăn như trường Tiểu học Nhà Lầu. Đồng thời sáng kiến được nhân rộng trong hội đồng sư phạm của đơn vị trường .

C. PHẦN KẾT LUẬN

I. Kết luận chung.

Nhìn trung trong thực tế những năm qua của trường Tiểu học Nhà Lầu những người làm công tác quản lí đã nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lí, chỉ đạo chuyên môn của một tập thể giáo viên và cả tập thể hội đồng sư phạm.Trong công tác chuyên môn của nhà trường là phải chú trọng đến việc quản lý của nhà trường, công tác giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh

Bởi vậy vai trò của người quản lý là hết sức quan trọng, nếu không quan tâm và nhận thức đúng đắn của một tập thể sư phạm của nhà trường thì kết quả đạt được như mong nuốn. Để xây dựng được nề nếp hoạt động chuyên môn trong một tập thể giáo viên đứng lớp giảng dạy thì người cán bộ quản lý của nhà trường phải là đầu tàu gương mẫu, phải chịu trách nhiệm toàn bộ chất lượng giáo dục của nhà trường.

Người cán bộ quản lý muốn phê phán ai trước hết phải phê phán bản thân mình.

Các hoạt động giáo dục của nhà trường có chất lượng hay không điều bắt nguồn từ người quản lí tốt hay còn nhiều mặt hạn chế.Tinh thần thống nhất và đồng thuận trong một tập thể, giúp cho công tác quản lý chỉ đạo được thông suốt và chặt chẽ từ đó đem lại chất lượng đạt hiệu quả cao và thực hiện được nhiệm vụ và các chỉ tiêu mà cấp trên giao trong năm.

Trên cơ sở đó người quản lí cũng không tốn công sức nhiều để đôn đốc, thúc đẩy nhắc nhở, vì mọi người điều thấy rõ trách nhiệm và nhiệm vụ của mình, đồng thời cũng hăng hái và tích cực tham gia mọi công việc được lãnh đạo nhà trường phân công và cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giạo. Nếu được như thế thì mọi người điều thân thiện và nhân ái hơn. Tôi cũng tin tưởng rằng trên cơ sở đó tập thể nhà trường điều hoàn thành tốt nhiệm vụ trong năm học 2018-2019.

Trong quá trình tiến hành nghiên cứu cũng như từ thực tiễn quản lí chỉ đạo tôi đã cố gắng rất nhiều song do kinh nghiệm còn hạn chế cũng như trình độ bản thân còn có giới hạn. Chính vì thế, những kinh nghiệm tôi đưa ra không khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn!

II.Kiến nghị:

1. Đối với nhà trường:

Tham mưu tốt với lãnh đạo phòng giáo dục để đầu tư thêm cơ sở vât chất như:

Xây thêm phòng học để giảng dạy và đồ dùng dạy học cho giáo viên nhằm phục vụ tốt cho từng tiết dạy.

Chỉ đạo cho tất cả giáo viên tự làm thêm đồ dùng dạy học ngoài những đồ dùng có sẵn.

Thương xuyên kiểm tra giám sát về công tác hoạt động chuyên môn nhằm có biện pháp khắc phục kịp thời.

2. Đối với phòng giáo dục:

Cần quan tâm chỉ đạo về công tác quản lí, chỉ đạo công tác chuyên môn của đơn vị.

Cần tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm trong cộng tác quản lí, chỉ dạo đổi mới hoạt động chuyên môn.

3. Đối với địa phường.

Cần tuyên truyền nâng cao ý thức cho cha mẹ học sinh, có ý thức và thấy rõ trách nhiệm của mình về giáo dục con em mình. Có tinh thần trách nhiệm tham gia vào công tác giáo dục của nhà trường. Có những chính sách khen thưởng kịp thời những tập thể và các nhân làm tốt công tác giáo dục của nhà trường từ đó động viên tinh thần kịp thời cho cán bộ giáo viên, nhân viên trong đơn vị.

Ban đại diện Cha mẹ học sinh vận động tất cả phụ huynh và các mạnh thường quân tích cực tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục.

Ninh Thạnh Lợi A, ngày 25 tháng 03 năm 2019

Người viết

HUỲNH VĂN THẮNG

PHỤ LỤC

NỘI DUNG

TRANG

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

B. PHẦN NỘI DUNG

I, Thực trang

1.Ưu điểm.

2.Hạn chế

II. Đề xuất giải pháp đổi mới công tác quản lí, chỉ đạo hoạt động chuyên môn .

1.Xây dựng kế hoạch giảng dạy

2.Triển khai dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

3. Đổi mới công tác KTĐG định hướng phát triển năng lực học sinh.

4. Đổi mới hoạt động chuyên môn.

5. Công tác kiểm tra đánh giá hoạt động đổi mới PPDH-KTĐG

III.Từ những thực trạng và giải pháp nêu trên đơn vị đã đạt kết quả sau:

C. PHẦN KẾT LUẬN

I. Kết luận chung.

II.Kiến nghị:

    1. Đối với nhà trường
    2. Đối với phòng giáo dục
    3. Đối với địa phương

1

1

1

2

3

3

3

4

5

6

6-7

8

8

8

8

9


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

SKKN sáng kiến kinh nghiệm phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.3 KB, 25 trang )

PHÒNG GD& ĐT HUYỆN ĐÔNG TRIỀU
TRƯỜNG TIỂU HỌC QUYẾT THẮNG

===***===

Sáng kiến kinh nghiệm:
"Phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học".

Họ và tên: Hoàng Thị Thu Hà
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quyết Thắng

Năm học: 2014-2015

MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
2. Thực trạng


3. Giải pháp, biện pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
3.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
3
3
3
4
4
8
13
13
14
21
22
23
23
24

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta cùng nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học và


công nghệ với xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế ngày càng cao, với sự cạnh
tranh trên thị trường thế giới ngày càng quyết liệt, với sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ thông tin... Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó coi “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu”, coi con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Vì vậy,
2


đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào tạo phải đào tạo đội ngũ những người lao động tự
chủ, năng động, sáng tạo, tiếp cận và làm chủ được công nghệ tiên tiến, có năng
lực giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, có khả năng bắt kịp nhịp điệu phát triển
của thời đại; Ngành Giáo dục và Đào tạo cần thực hiện giáo dục toàn diện tạo
chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung
chương trình, phương pháp giáo dục. Đặc biệt phương pháp giáo dục cần đổi mới
theo hướng phát huy tính tích cực của người học.
Đổi mới phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, phát huy tư duy
sáng tạo của người học được thực hiện theo nhiều cách, trong đó việc sử dụng thiết
bị giáo dục (TBGD) là một trong những cách thức phát huy tính tích cực của người
học trong quá trình dạy học. TBGD là một thành tố không thể thiếu được trong quá
trình dạy học . Muốn đổi mới phương pháp dạy học phải đổi mới cả nội dung dạy
học, TBGD, tổ chức dạy học và cách kiểm tra đánh giá.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII được trình
bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: “Tăng cường cơ sở vật
chất và từng bước hiện đại hoá nhà trường , lớp học, sân chơi, bãi tập, máy tinh
nối mạng internet, thiết bị học tập và giảng dạy hiện đại , thư viện, ký túc xá...”
và “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào
tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến
thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay.”
Thực tế nhiều năm học qua, các trường tiểu học đã có nhiều cố gắng và bước
đầu có thành tích trong việc quản lý sử dụng và bảo quản TBGD , góp phần nâng


cao chất lượng dạy học, song việc làm này còn nhiều hạn chế vì nhiều lý do khác
nhau: TBGD còn thiếu (nhất là các thiết bị hiện đại), chất lượng chưa đồng bộ; ở
nhiều nơi có TBGD nhưng giáo viên chưa chú ý sử dụng thậm chí có nơi giáo viên
không biết sử dụng hoặc sử dụng mà không có hiệu quả. Tình trạng “Dạy chay”
còn phổ biến. TBGD phần lớn chỉ được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt
như: thao giảng, hội giảng, có đoàn kiểm tra. Công tác quản lý TBGD của Phó hiệu
trưởng các trường còn mang tính hành chính, chiếu lệ. Trong khi đó việc sử dụng
TBGD của giáo viên lại chịu ảnh hưởng nhiều từ cách quản lý TBGD của Phó hiệu
3


trưởng. Do đó vấn đề quản lý TBGD hiện nay đang là vấn đề bức xúc đặt ra, được
nhiều nhà quản lý quan tâm.
Từ những lý do trên và với mong muốn tìm được các biện pháp quản lý góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD ở trường tiểu học nên tôi đã chọn đề tài:
"Phó hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy ở trường Tiểu học".
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý sử dụng
TBGD ở trường Tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng quản lý, sử dụng TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi
công tác.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
TBGD ở trường Tiểu học.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý của phó hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
TBGD ở trường Tiểu học .
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2014 đến hết tháng 4 năm 2015.
- Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trường Tiểu học Quyết Thắng.


5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nghiên cứu các văn kiên, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, chỉ thị của ngành.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về TBGD và quản lý TBGD.
5.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra thực tế, quan sát, đàm thoại, phỏng vấn, ....
5.3 Phương pháp toán học:
Thống kê, xử lý các số liệu đã thu thập được.
II. PHẦN NỘI DUNG
1.Cơ sở lý luận :
* TBGD là một bộ phận của nội dung và phương pháp dạy học:
4


Lý luận dạy học đã khẳng định: Quá trình dạy học là một quá trình trong đó
hoạt động dạy và hoạt động học phải là những hoạt động khăng khít giữa các đối
tượng xác định và có mục đích nhất định. Để quá trình dạy học có chất lượng và
hiệu quả cao thì chúng ta phải lựa chọn và sử dụng nhiều phương pháp dạy học
khác nhau kết hợp với các TBGD phục vụ cho việc truyền thụ nội dung kiến thức.
Mục tiêu và nội dung học tập trong nhà trường phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã
hội vĩ mô. Còn sách giáo khoa và TBGD một mặt phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế xã hội, mặt khác còn chịu nhiều ảnh hưởng của khoa học công nghệ đương thời.
Ngày nay khi khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc thì sự tiến bộ đó cũng
được phản ánh vào hệ thống TBGD ở nhà trường tiểu học.
Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì TBGD đóng vai trò hỗ
trợ tích cực. Vì có TBGD tốt thì ta mới có thể tổ chức được quá trình dạy học khoa
học, đưa người học thực sự tham gia vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri
thức dưới sự hướng dẫn của người dạy. TBGD phải đủ và phù hợp mới triển khai
được các phương pháp dạy học một cách hiệu quả. Tuy nhiên, đứng trên một góc
độ khác thì TBGD còn là một bộ phận không thể thiếu được của nội dung và
phương pháp dạy học. TBGD hầu hết là các sản phẩm khoa học kỹ thuật có chức


năng xác định và mang tính mục đích sư phạm rất cao, chúng chứa đựng một tiềm
năng tri thức to lớn đồng thời đóng vai trò là đối tượng nhận thức.
*Vai trò của TBGD trong việc đảm bảo nâng cao chất lượng giáo dục:
TBGD có vai trò to lớn trong quá trình nhận thức.Theo Lê- nin ,qui luật
nhận thức của con người là: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.”
Để quá trình nhận thức của con người nói chung đạt hiệu quả cao thì cần
phải thông qua quá trình nghe, nhìn và thực hành. Với học sinh tiểu học, (lứa tuổi
từ 6 đến 11, 12 tuổi ) tư duy của các em mới chỉ là tư duy cụ thể, tư duy hình ảnh
chiếm ưu thế hơn so với tư duy trừu tượng. Các hình ảnh trực tiếp, các dụng cụ,
mô hình, hiện tượng được trực quan hoá luôn tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với các em.
Không ít những nội dung học tập phức tạp cần đến sự hỗ trợ tích cực của
phương tiện trực quan mới giải quyết được như: chứng minh các hiện tượng khoa
5


học tự nhiên, toán học, … học sinh rất cần được trực tiếp tận mắt nhìn thấy, tai
nghe thấy, tay được cầm nắm, được trực tiếp làm thí nghiệm, được lắp ráp thao tác,
quan sát nhận xét bằng việc sử dụng các dụng cụ, phương tiện cụ thể. Nghĩa là học
bằng tất cả các giác quan huy động mọi tiềm năng để nhận thức. Nhu cầu nhận
thức của các em gắn liền với các việc làm cụ thể và hoàn cảnh, môi trường về nghe
nhìn, sờ, sử dụng đồ dùng trực quan trước khi có thể hình thành logic, tư duy trừu
tượng đúng đắn. Lúc này, sự hình thành các biểu tượng quan trọng hơn sự khám
phá bản chất các mối quan hệ bên trong của sự vật hiện tượng. Mà quá trình dạy
học là quá trình nhận thức ở mức độ cao, vì vậy TBGD không thể thiếu trong quá
trình dạy học.
Nâng dần tính trực quan của bài học và tỷ lệ bài học có thực nghiệm theo
quy định của chương trình, tăng cường việc thực hành của học sinh là nhằm tạo ra
một nền tảng thực nghiệm của tri thức, làm ngắn lại con đường đạt được sự hiểu
biết. Bằng thực nghiệm và trực quan, thực hành tạo ra hoạt động toàn diện ( vận


động và tư duy) và tích cực của người học, giúp học tự tìm ra các vấn đề cho chính
mình một cách chủ động theo triết lý “Tôi làm, tôi hiểu” và phương pháp “Tập
phát minh”.
Để học tập khoa học theo phương pháp được khám phá, chứng minh kiến
thức sách giáo khoa và trong thực tế, thể hiện tường minh phương pháp nghiên cứu
và kỹ năng thì các phương tiện, dụng cụ phòng thí nghiệm có vai trò và tiềm năng
to lớn.
Để trình bày với sự trực quan cao trong việc quan sát, trình diễn vận hành
của cơ chế, cấu trúc, vân động, mô hình, mô phỏng thì các phương tiện Nghe Nhìn có ưu thế rõ rệt.
TBGD cho phép khai thác sâu sắc nội dung sự vật, hiện tượng khoa học trong tài
liệu học tập (thực nghiệm khoa học phải được “dựng’ từ trong sách giáo khoa lên mặt
bàn bằng các vật liệu cụ thể của người học). Như vậy TBGD cho phép:
- Thực hiện được “Nguyên tắc trực quan” trong dạy học (“trực quan” được
hiểu theo nghĩa rộng : liên quan đến mọi giác quan của con người ).

6


- Góp phần đảm bảo chất lượng kiến thức theo những đặc trưng cơ bản:
Tính chính xác, khoa học; Tính tổng quát; Tính hệ thống; Tính chuyển hoá; Tính
thực tiễn, vận dụng được; Tính bền vững.
- Dạy phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, làm việc - bộ phận không
tách rời của kiến thức.
- Rèn kỹ năng nhiều mặt cho người học.
* Vai trò của các phương tiện kỹ thuật:
Trong các loại TBGD thì các phương tiện kỹ thuật dạy học (PTKTDH) có
vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tạo khả năng hình thành, củng cố, hệ thống
hoá, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. PTKTDH gồm các máy chiếu quang học,
máy tạo hoặc khuyếch đại âm thanh, hình ảnh, máy lưu giữ và tái hiện thông tin,
máy tính và công nghệ thông tin… vốn chứa đựng những tiềm năng sư phạm to


lớn trong việc hỗ trợ tích cực giảng dạy và học tập. Bằng những phương tiện hiện
đại, người ta đã tổ chức được các hội thảo, hội nghị, các lớp học theo phương thức
giáo dục từ xa, các lớp học qua vệ tinh… Việc học tập tại gia đình cho người lớn
tuổi cũng đã được một số nước áp dụng và sẽ mở rộng trong những năm tới.
Hiện tại đã có nhiều phương tiện kỹ thuật mới được ứng sử dụng trong dạy
học, giáo dục đặc biệt là việc ứng dụng tin học. Với sự tiến bộ nhanh chóng của
khoa học và công nghệ, PTKTDH được sử dụng trong trường học ngày càng nhiều
sẽ làm thay đổi một cách căn bản về mặt phương pháp: làm cho quá trình giáo dục
sinh động và hiệu quả hơn.
TBGD và PTKTDH tạo điều kiện đi sâu vào các đề tài nghiên cứu đồng thời
cho phép trình bày vấn đề một cách sinh động, chứa đựng tiềm năng sư phạm to
lớn hỗ trợ tích cực trong giảng dạy, học tập: Khả năng tăng tốc độ truyền tải thông
tin, thực hiện phương pháp dạy học trực quan, thực nghiệm, tạo những “vùng hợp
tác sinh động” giữa thày và trò, tạo khả năng hình thành, củng cố tri thức, rèn
luyện kỹ năng làm việc, học tập, sự khéo léo của đôi tay,đôi chân, bồi dưỡng khả
năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tạo ra hứng thú lôi cuốn người học, tiết kiệm
thời gian trên lớp, cải tiền các hình thức lao động sư phạm, tạo khả năng tổ chức
một cách khoa học và điều khiển hoạt động giáo dục.
7


Ngày nay chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình, Sách giáo khoa,
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh, tăng cường
công tác tự lập, thực hành của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo, học sinh là chủ
thể tự mình tìm ra kiến thức thông qua sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Việc
đổi mới theo xu hướng đó đòi hỏi phải sử dụng rộng rãi các TBGD , nếu không có
TBGD thì không thể chuyển tải được nội dung của sách giáo khoa và cũng không
thể đổi mới được phương pháp dạy và phương pháp học. Vậy, TBGD là một trong
những tiền đề quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học.
Tóm lại: TBGD có vai trò quan trọng đối với quá trình dạy học. Sử dụng


TBGD đảm bảo thông tin về các hiện tượng , đối tượng nghiên cứu đầy đủ và
chính xác hơn, làm cho chất lượng dạy và học cao hơn, giúp thoả mãn trong phạm
vi tối đa và phát triển hứng thú nhận thức của học sinh. Sử dụng TBGD sẽ nâng
cao tính trực quan của dạy học, mở rộng khả năng tiếp cận với các sự vật và hiện
tượng.
Sử dụng TBGD sẽ gia tăng cường độ lao động học tập của học sinh và do đó
cho phép nâng cao nhịp độ nghiên cứu tài liệu giáo khoa, cho phép học sinh có
điều kiện tự lực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Thông qua hành
động trên TBGD rèn luyện cho các em tính cẩn thận tỉ mỉ chính xác và phát triển
tư duy khoa học, giáo dục ý thức giữ gìn đồ vật và bảo vệ môi trường…góp phần
hình thành nhân cách cho học sinh.
2.Thực trạng về TBGD và công tác quản lý, sử dụng TBGD ở trường
Tiểu học Quyết Thắng.
* Thực trạng về trang bị TBGD :
Việc trang bị TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi công tác chủ yếu là do cấp
phát từ trên xuống theo chỉ tiêu, kế hoạch định sẵn. Nhà trường có mua sắm các
phương tiện dạy học hiện đại và huy động giáo viên tự làm. Từ năm học 20022003, thực hiện việc đổi mới chương trình sách giáo khoa và đổi mới phương pháp
dạy học, nhà trường được cấp các danh mục TBGD từ lớp 1 đến lớp 5 theo quy
định chung.

8


Những TBGD được cấp phát chủ yếu là những TBGD thô sơ, đơn giản như:
tranh ảnh, sách giáo khoa, một số bộ mẫu chữ viết, bảng nỉ, bộ dụng cụ học nhạc,
bộ dụng cụ đo đạc,… Tuy nhiên những TBGD được cấp số lượng còn quá ít,
không đủ cho các lớp :
+ Môn Toán lớp 1: các mô hình con vật, hoa …bằng bìa rời có gắn nam
châm phía sau để khi dạy gắn vào các mô hình của bài dạy còn thiếu rất nhiều.
+ Toán lớp 4: Đồ dùng dạy phần kiến thức về phần biểu đồ không có.


+ Phân môn Tâp đọc, Kể chuyện, Tập làm văn của môn Tiếng Việt, môn
Đạo đức lớp 1,2,3,4,5 còn thiếu rất nhiều tranh ảnh minh hoạ phục vụ các bài dạy.
+ Môn TN - XH và Khoa học- Lịch sử+ Địa lí ở các lớp 1,2,3,4,5 một số
chương, phần chưa có đủ đồ dùng.
Nhà trường cũng có kế hoạch mua sắm thêm một số trang thiết bị hiện đại
phục vụ cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường như tăng âm, loa máy, đầu
video, máy chiếu máy tính, máy ảnh, máy scan.... Đặc biệt trong năm học này nhà
trường đã xây dựng được 4 phòng học thông minh…nhưng những thiết bị này
phục vụ cho các hoạt động dạy và học các ngoại khoá, các buổi lễ, hội nghị có tác
dụng thiết thực đối với từng tiết dạy.
Ngoài ra hàng năm nhà trường cũng đã tổ chức thi làm đồ dùng dạy học ,
thiết kế bài giảng điện tử áp dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhưng quá trình
bảo quản các thiết bị hiện đại còn hạn chế nên không thể sử dụng được lâu dài.
Tóm lại, việc trang bị TBGD của nhà trường đầy đủ các TBGD hiện đại nên
giáo viên có cơ hội được tiếp xúc với các thiết bị này nhưng bên cạnh còn một số
giáo viên cao tuổi sử dụng TBGD hiện đại còn hạn chế do đó chưa đáp ứng được
nhu cầu cần thiết cho việc dạy học trong giai đoạn hiện nay.
* Thực trạng về việc sử dụng TBGD:
Hiện nay nhà trường chủ yếu sử dụng các TBGD được cấp phát. Qua tìm
hiểu thực trạng nhà trường thấy rằng:
TBGD được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất là ở các môn Toán và
Tiếng Việt lớp 1. Do học sinh lớp 1 còn nhỏ đòi hỏi giải thích kiến thức bằng trực
quan là dễ hiểu nhất nên những bộ chữ học vần, bộ học toán, những tranh ảnh
9


minh hoạ được sử dụng rất hiệu quả. Ngược lại, TBGD các môn TN– XH, môn thể
dục, các môn nghệ thuật ít được sử dụng, thậm chí có những giáo viên trong suốt
năm học không sử dụng các TBGD này lần nào.
Ở các lớp 2,3,4 TBGD được sử dụng chủ yếu nhất là các bảng gài, bảng nỉ,


bộ chữ dạy tập viết, bộ biểu diễn toán. Các bộ tranh đạo đức, TN – XH, mỹ thuật,
thủ công, các bộ tranh dạy tập làm văn, tập đọc, kể chuyện,… rất ít được sử dụng.
Các TBGD môn Hát nhạc, Mỹ thuật do giáo viên dạy các môn này là giáo
viên chuyên biệt, các TBGD này không để ở tủ mỗi lớp học nên giáo viên rất ngại
sử dụng. Giáo viên hát nhạc lên lớp chủ yếu sử dụng đàn ócgan nhà trường có sẵn
còn các bộ dụng cụ học nhạc dân tộc, bộ kèn, thanh phách, mõ song loan, trống
hầu như không sử dụng đến.
Đặc biệt là các đĩa CD âm nhạc lớp 3, 4 , băng đĩa dạy các môn học lớp 1
giáo viên sử dụng nhưng chưa thường xuyên.
Như vậy, tình trạng dạy chay, học chay vẫn còn phổ biến, giáo viên vẫn
quen với nếp cũ, lên lớp chủ yếu là thuyết trình, giảng giải, thày giảng – trò nghe.
Giáo viên còn ngại sử dụng TBGD , còn cho rằng sử dụng TBGD mất thời gian,
tốn công chuẩn bị, dành thời gian sử dụng TBGD để giảng giải và cho học sinh
luyện tập vẫn hơn. TBGD chỉ được sử dụng có hiệu quả trong các giờ hội giảng,
hội thi, trong các đợt thanh tra, kiểm tra của cấp trên và nhà trường. Cũng có giáo
viên sử dụng TBGD dạy học nhưng hiệu quả lại chưa cao: có giáo viên chỉ đưa ra
coi như giới thiệu TBGD chứ chưa khai thác được nội dung kiến thức, chưa giúp
học sinh nhận biết kiến thức thông qua quan sát, thực hành trên TBGD; Có giáo
viên chưa biết cách sử dụng TBGD hợp lý, đặt TBGD trên bàn hoặc treo trên bảng
từ đầu đến cuối tiết học làm học sinh phân tán tư tưởng, không chú ý vào nội dung
bài học. Sử dụng TBGD như thế không những không phát huy được tác dụng của
TBGD, không phát huy được khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, tính tự giác, tích
cực hoạt động của học sinh mà còn làm giảm hiệu quả sư phạm của TBGD, làm
giảm chất lượng giáo dục của giờ học.
* Thực trạng việc bảo quản TBGD:

10


Ở từng lớp đã được trang bị tủ riêng nhưng tủ này lại quá nhỏ chỉ có thể


đựng một số sách vở, đồ dùng học tập của học sinh và một số TBGD phục vụ các
môn Toán, Tiếng Việt mà giáo viên thường sử dụng, còn rất nhiều TBGD được để
trong phòng thiết bị, thư viện. Trong phòng này tuy đã có một số tủ kính để sách
vở và TBGD nhưng việc sắp đặt còn lộn xộn, chưa khoa học, thậm chí còn lẫn lộn
chồng chéo. Các bộ tranh ảnh không có đủ chỗ để treo, có những bộ cuộn tròn để
trong tủ, có bộ thì treo chồng lên nhau trên tường. Vì vậy, khi muốn lấy một
TBGD nào đó thì rất khó khăn, mất thời gian. Các TBGD do không được bảo quản
đúng cách, khí hậu Việt Nam nóng, ẩm, mưa nhiều nên rất dễ bị ẩm mốc, hỏng
hóc, có khi còn bị mối mọt, một số thiết bị bằng gỗ bị cong vênh không còn giá trị
sử dụng.
Giáo viên phụ trách thiết bị, thư viện học đúng chuyên ngành xong vừa mới
ra trường nên còn hạn chế về kinh nghiệm. Nhà trường chưa có điều kiện để trang
bị các phương tiện chống ẩm mốc, chống mối mọt.Cuối mỗi năm học nhà trường
đều có tổ chức kiểm kê nhưng cũng chỉ làm dưới hình thức đếm, rà soát lại xem có
thiết bị nào thiếu, thiết bị nào hỏng mà không có kế hoạch bổ sung, sửa chữa, cũng
không quy vào tinh thần trách nhiệm của ai.
Máy vi tính và các thiết bị điện tử khác không có chế độ bảo quản riêng,
không theo đúng quy trình kỹ thuật của nhà sản xuất, chưa có chế độ bảo dưỡng
định kỳ nên thường xuyên hỏng hóc, phải sửa chữa.
Nhà trường đã có sổ sách theo dõi mượn, trả TBGD của giáo viên nhưng
nhân viên phụ trách thiết bị thư viện chưa quan tâm chú ý. Có giáo viên mượn
TBGD mà không ghi vào sổ, có giáo viên mượn nhưng lại không sử dụng hoặc sử
dụng không đúng mục đích, có TBGD giáo viên mượn không trả lại gây thất thoát,
lãng phí. Nhiều khi giáo viên trả TBGD cũng không được kiểm tra lại mà cứ thế
treo lên tường hoặc lại cuộn tròn cất vào tủ, do đó không phát hiện được hư hỏng
nên không nêu cao được tinh thần trách nhiệm của giáo viên.
Có thể nói, việc bảo quản TBGD ở trường Tiểu học nơi tôi công tác chưa
được chú trọng đúng mức, tình trạng hư hỏng, thất thoát, lãng phí dẫn đến kém

11




chất lượng và hiệu quả sử dụng còn xảy ra nhiều. Đây chính là vấn đề đòi hỏi đội
ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, nhân viên nhà trường cần quan tâm chú ý.
* Thực trạng về công tác quản lý TBGD:
Các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường cũng đã chú ý nhắc nhở, động
viên giáo viên sử dụng TBGD trong quá trình dạy học, giúp giờ học thêm sinh
động hấp dẫn, nâng cao chất lượng giáo dục nhưng việc làm này chưa được tiến
hành thường xuyên, đôi khi mới chỉ là “ đánh trống, bỏ dùi”.
Chưa đưa việc sử dụng TBGD thành tiêu chí đánh giá xếp loại giáo viên,
chưa có những hình thức thi đua khen thưởng thích đáng để giáo viên tích cực sử
dụng TBGD. Vì vậy, việc sử dụng TBGD chưa thực sự trở thành nền nếp. Mặt
khác việc dạy chay đã gần như là truyền thống, là lối mòn khó phá bỏ, giáo viên rất
ngại sử dụng TBGD khi lên lớp mà người quản lý lại ít quan tâm đến việc tìm hiểu
lý do, tâm lý giáo viên nên TBGD chưa được sử dụng đúng với vai trò, chức năng
của nó.
Hàng năm nhà trường đã có kế hoạch đầu tư trang bị CSVC và TBGD
nhưng chủ yếu chỉ là kế hoạch về xây dựng CSVC còn TBGD đa số vẫn trông chờ
việc cấp phát từ trên. Nhà trường chưa có kế hoạch cụ thể về trang bị, bảo quản và
sử dụng TBGD. Chưa chú ý đến việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho nhân
viên làm công tác thiết bị và bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho giáo viên trực tiếp
giảng dạy.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên:
Công tác TBGD của trường Tiểu học nơi tôi công tác còn một số bất cập,
hạn chế như trên có thể nói một phần là do điều kiện khách quan nhưng phần lớn
vẫn là do những nguyên nhân chủ quan từ phía nhà trường. Những nguyên nhân
khách quan và chủ quan có thể được kể đến như sau:
* Nguyên nhân khách quan:
Để đáp ứng yêu cầu của sự đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay, Nhà
nước ta cần có nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục lớn hơn rất nhiều song do


nguồn ngân sách còn hạn hẹp nên Nhà nước không đủ kinh phí để có thể trang bị
đồng bộ TBGD cho tất cả các trường học trên cả nước.
12


Trong hoàn cảnh chung của đất nước như vậy, CSVC và TBGD của nhà
trường phụ thuộc vào ngân sách của các địa phương là chủ yếu. Hơn nữa đời sống
kinh tế của nhân dân cũng ở mức trung bình nhưng nhận thức của họ về công tác
giáo dục còn chưa đầy đủ nên việc vận động nhân dân đầu tư trang bị hệ thống
TBGD cho nhà trường rất khó khăn.
Như phần thực trạng đã nêu ở trên số lượng thiết bị còn thiếu nhưng vấn đề
thiếu còn có khả năng khắc phục được, chủ yếu là do chất lượng của một số TBGD
không đảm bảo, thiết kế không hợp lý:
+ Phân môn Tập viết của lớp 3, bộ chữ mẫu dùng minh hoạ cho dạy tập viết
cỡ chữ không phù hợp với cỡ chữ trong chương trình học của học sinh.
+ Môn Âm nhạc lớp 3 : Tranh minh hoạ không gắn vào từng bài cụ thể nên
không tiện sử dụng, kèn Mêlôdion ( Hàn Quốc) quá lớn, giáo viên thổi được đã là
khó, học sinh lớp 3 không thể đủ hơi để thổi.
+ Môn TN –XH lớp 3: Mô hình trái đất quay quanh mặt trời, mặt trăng quay
quanh trái đất rất cồng kềnh, khó sử dụng, cần phải có phòng tối, có rèm che thì sử
dụng mới đạt hiệu quả.
+ Tranh minh hoạ phân môn Kể chuyện lớp 4 các bức tranh ứng với từng
đoạn của câu chuyện đáng lẽ phải được trình bày riêng thành từng bức rời nhau thì
lại được trình bày chung trên cùng một tranh khổ to, như vậy rất bất tiện trong việc
sử dụng, khi hướng dẫn học sinh kể từng đoạn học sinh dễ bị phân tán sang đoạn
khác.
+ Môn Khoa học lớp 4 : Ở các tranh dạy bài 37, 23,60 các phiếu ghi tên các
cơ quan, bộ phận của từng tranh còn quá nhỏ, không tiện sử dụng; Chương “Ánh
sáng” đèn pin để dạy bài “Ánh sáng” hơi nhỏ nên khi làm thí nghiệm học sinh khó
quan sát, khó phát hiện ra đường chuyền của ánh sáng. v. v…


Với một hệ thống TBGD thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và thời gian
cung ứng lại chậm như vậy gây tâm lý không tốt trong giáo viên, làm họ ngại sử
dụng vì lo nếu TBGD không đảm bảo sẽ mất thời gian mà lại không mang lại hiệu
quả cho giờ học.
*Nguyên nhân chủ quan:
13


Sự nhận thức chưa đúng của giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý. Chưa
nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của TBGD trong quá trình dạy học.
Nếp nghĩ và thói quen dạy chay, ngại đổi mới dường như đã hằn sâu trong họ nên
họ rất ngại sử dụng TBGD khi lên lớp. Đời sống của giáo viên cũng tương đối ổn
định nhưng rất ít giáo viên đủ điều kiện để sắm những TBGD cho riêng.
Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan trên nên hiệu quả sử dụng
TBGD ở trường Tiểu học chưa cao, đòi hỏi phải đổi mới công tác quản lý TBGD
bàng những biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD và góp
phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
3. Một số biện pháp quản lý của Phó Hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng thiết bị giảng dạy ở trường Tiểu học.
3.1. Mục tiêu của giải pháp.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng
TBGD, tôi nhận thấy rằng TBGD chịu sự chi phối của nội dung và phương pháp
dạy học. Nội dung dạy học quy định những đặc điểm cơ bản của TBGD bởi lẽ
TBGD phải tính đến một cách toàn diện các đặc điểm của nội dung, chương trình.
Mỗi TBGD phải được cân nhắc, lựa chọn để đáp ứng được nội dung, chương trình,
đồng thời cũng phải thoả mãn các yêu cầu về khoa học sư phạm , kinh tế, thẩm mỹ
và an toàn cho giáo viên và học sinh khi sử dụng nhằm đạt kết quả mong muốn.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão,
nhiều tri thức đem dạy ở trường phổ thông nhanh chóng bị lạc hậu vì vậy chúng ta
đang tiến hành đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học. Phương


pháp dạy học phải theo xu hướng tích cực hoá quá trình nhận thức của học sinh,
năng lực thực hành, năng lực tự nghiên cứu. Muốn đạt được điều đó thì không có
cách nào khác là phải tăng cường trang bị và đặc biệt là nâng cao hiệu quả sử dụng
thiết bị giảng dạy trong đó chú trọng phương tiện nghe nhìn và ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học.
Như vậy công tác quản lý TBGD càng khó khăn, nặng nề hơn, đòi hỏi người
quản lý thiết bị dạy học ở nhà trường phải nắm chắc lý luận về TBGD, có quyết
tâm cao chỉ đạo việc trang bị, sử dụng và bảo quản TBGD bằng những biện pháp
14


phù hợp thì mới đem lại hiệu quả cao.Tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài “ Phó
hiệu trưởng với công tác quản lí thiết bị đồ dùng nhằm nâng cao hiệu quả
chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học”, tôi mạnh dạn đưa ra các biện pháp quản
lý của Phó hiệu trưởng với công tác quản lý thiết bị giảng dạy ở trường Tiểu học như
sau:
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
a. Đẩy mạnh việc bồi dưỡng nghiệp vụ sử dụng TBGD, cách khai thác sử dụng TBGD:
Sử dụng là mục tiêu cơ bản và là mục tiêu cuối cùng của toàn bộ công tác
thiết bị nhà trường. Quan điểm này rất quan trọng và cần được thông suốt trong
toàn bộ đội ngũ những người làm công tác TBGD. Nếu TBGD không được sử
dụng thì việc đầu tư trang bị, xây dựng hệ thống TBGD cũng trở thành thừa. Bản
thân TBGD chỉ là vật vô tri, vô giác, nếu con người không sử dụng thì không thể
phát huy được tác dụng và khả năng sư phạm của nó. Nhưng nếu sử dụng sai hoặc
không đúng mục đích thì có thể sẽ phản tác dụng. Để sử dụng TBGD có hiệu quả
đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về yêu cầu sử dụng
TBGD. Cần hiểu biết về TBGD , kỹ thuật sử dụng chúng và hiểu biết sâu sắc về
phương pháp dạy học trực quan.: sử dụng TBGD với mục đích gì, vào lúc nào,
trong thời gian bao lâu, học sinh cần tham gia hoạt động như thế nào?…
Sử dụng TBGD có hiệu quả để tránh những lãng phí về kinh phí, vật tưkhoa học - kỹ thuật - giáo dục. Sử dụng TBGD còn nhằm phát huy tính tích cực,


chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang có sử dụng các TBGD hiện đại
như: máy chiếu, máy vi tính, phòng học thông minh…Khi nhà trường đã trang bị
các thiết bị này thì yêu cầu giáo viên phải nắm được tối thiểu về cấu tạo, chức năng
và cách vận hành, sử dụng chúng.
Công tác TBGD phải làm thường xuyên, liên tục và toàn diện từ khâu trang
bị, sử dụng và bảo quản. Trong những vấn đề đó nổi cộm lên là công tác tập huấn
cho giáo viên sử dụng TBGD phục vụ cho bài giảng, và tăng cường việc sử dụng
TBGD trong dạy học.
*Tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ sử dụng TBGD cho giáo viên:
15


Nhà trường cần có nhiều hình thức bồi dưỡng nghiệp vụ sử dụng TBGD
cho giáo viên:
+ Với cán bộ phụ trách TBGD cần nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ
năng sử dụng TBGD có thể về triển khai đại trà cho giáo viên nhà trường.
+ Trong thời gian bồi dưỡng chuyên môn hè cho giáo viên, nhà trường cũng
có thể kết hợp mở lớp tập huấn kỹ năng nghiệp vụ sử dụng TBGD cho toàn bộ giáo
viên trong trường, có thể mời các chuyên gia về về báo cáo về các vấn đề chuyên
môn, kỹ thuật, học thuật,…và tập huấn cho giáo viên cách sử dụng, vận hành các
TBGD hiện đại.
+ Có thể kết hợp với các trường bạn trong cụm mở những cuộc hội thảo trao
đổi kinh nghiệm sử dụng TBGD vừa mang tính học hỏi lẫn nhau, vừa mang tính
đoàn kết, giúp đỡ nhau trong chuyên môn, từ đó tạo thành ý thức tự giác, phong
trào sử dụng TBGD trong quá trình dạy học.
+ Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của các tổ, khối, cần đưa nội dung
trao đổi nghiệp vụ sử dụng TBGD, có thể làm mẫu, thao giảng với từng môn học,
từng tiết học (sử dụng TBGD vào lúc nào, bố trí trình bày sao cho hợp lý, mức độ
và cường độ sử dụng ra sao), từ đó đúc rút thành kinh nghiệm. Ban giám hiệu nhà


trường cần sưu tầm và xây dựng những bộ tài liệu để hỗ trợ giải quyết các câu hỏi
về chuyên môn, kỹ thuật, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ cho giáo viên. Phát huy
sáng kiến kinh nghiệm nội bộ.
* Bồi dưỡng sử dụng TBGD thường xuyên trong quá trình dạy học:
Để nâng cao hiệu quả sử dụng TBGD, khi giáo viên đã có nhận thức đúng
đắn về tầm quan trọng của TBGD trong quá trình dạy học, đã có kỹ năng nghiệp
vụ sử dụng TBGD thì việc làm tiếp theo hết sức cần thiết đó là làm sao để nâng
cao tần suất sử dụng các TBGD, TBGD phải được sử dụng thường xuyên và có
hiệu quả, như vậy việc đầu tư trang bị mới không lãng phí vô ích.
* Biện pháp hành chính:
Nhà trường cần yêu cầu giáo viên nghiêm chỉnh chấp hành các quy chế hiện
hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy chế quản lý tài sản, tài chính của Nhà nước.
Ngay từ đầu năm học, nhà trường cũng cần xây dựng được những quy định
về TBGD và sử dụng TBGD nhằm thiết lập được nề nếp, thói quen sử dụng TBGD
của giáo viên trong trường. Những quy định này cần được thông qua hội đồng sư
16


phạm nhà trường sau đó làm thành văn bản, trở thành quy định bắt buộc, nếu vi
phạm sẽ bi xử lý theo quy định.
Việc sử dụng TBGD được xét thành tiêu chí đánh giá thi đua giáo viên.
Việc sử dụng TBGD phải được quản lý một cách chặt chẽ, kể cả những
TBGD để tại phòng học của các lớp, kể cả các TBGD giáo viên mượn tại phòng
thiết bị, hàng tuần tất cả các giáo viên đều phải có phiếu đăng ký sử dụng TBGD
trong tuần (nộp cho cán bộ phụ trách thiết bị vào cuối tuần trước). Cán bộ phụ
trách thiết bị dán phiếu này ngay tại phòng thiết bị để tiện theo dõi.
* Mẫu phiếu đăng ký sử dụng TBGD :
Tuần:

…………



Từ ngày:

………..

đến ngày:…………….

Họ và tên giáo viên:……………………………………….
Thứ ngày

Tên TBGD cần sử dụng

Tên bài dạy

Môn

Lớp

Mặt khác, hàng ngày giáo viên cần ghi nhật ký sử dụng TBGD vào sổ nhật
ký để tiện theo dõi.
Cũng cần chú ý nâng cao vai trò của tổ chuyên môn trong việc sử dụng
TBGD. Tổ trưởng tổ chuyên môn chính là cánh tay nối dài của Phó hiệu trưởng, tổ
trưởng chuyên môn có vai trò theo dõi, nhắc nhở các thành viên trong tổ mình sử
dụng TBGD thường xuyên, việc làm này rất có hiệu quả bởi chính trong tổ sẽ biết
rõ ngày nào, dạy bài gì, cần sử dụng TBGD nào họ sẽ nhắc nhở nhau và giúp đỡ
nhau để cùng sử dụng TBGD có hiệu quả.
* Biện pháp thi đua: Biện pháp này sẽ phát huy nhiều tác dụng nếu được sử
dụng đúng lúc, đúng mục đích và công bằng, khách quan.
Tổ chức tốt phong trào thi đua sử dụng TBGD có hiệu quả trong mỗi tiết dạy
hàng ngày. Trong các kỳ hội giảng, thao giảng cũng cần đặt tiêu chí “tiết dạy có sử


dụng TBGD hiệu quả” lên hàng đầu.Phó hiệu trưởng đánh giá giờ dạy của giáo
viên, bên cạnh những căn cứ về mục đích, yêu cầu, nội dung kiến thức,…còn phải
đánh giá khâu chuẩn bị bài giảng (trong đó có sự chuẩn bị về TBGD )và khâu sử
dụng TBGD trong dạy học. Qua đó có thể nhận rõ giáo viên nào có ý thức, có kỹ

17


năng sử dụng TBGD, giáo viên nào còn yếu về kỹ năng nghiệp vụ và có kế hoạch
bồi dưỡng thêm ra sao.
Sau mỗi đợt thi đua cần có chế độ khen thưởng động viên kịp thời, thoả
đáng kể cả về vật chất lẫn tinh thần. Đồng thời cũng cần có biện pháp nhắc nhở
hợp lý đối với những giáo viên không có ý thức, ngại sử dụng TBGD. Làm như thế
mới tạo được sự công bằng, khách quan, khuyến khích được sự tham gia nhiệt tình,
tích cực của mọi giáo viên.
Chúng ta biết rằng, nếu TBGD không được sử dụng vào hoạt động dạy học
thì hiệu quả sư phạm của nó chỉ là con số không. Khi đó mọi sự trang bị, đầu tư
cho công tác TBGD đều vô nghĩa. Do đó cần tăng cường sử dụng một cách thường
xuyên, liên tục và hiệu quả cao.
b. Chỉ đạo tích cực công tác bảo quản TBGD:
Hiệu quả sử dụng và khai thác TBGD phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Sự quan
tâm của lãnh đạo nhà trường đối với việc đổi mới phương pháp dạy và học, đối với
công tác tổ chức quản lý nghiệp vụ TBGD, khả năng và trình độ chuyên môn quản
lý của cán bộ phụ trách TBGD, sự nhiệt tình và trách nhiệm của các giáo viên
trong nhà trường, cách bảo quản, bố trí sắp xếp các TBGD,…Như vậy, Một trong
những điều kiện để sử dụng, khai thác có hiệu quả TBGD là TBGD phải được bảo
quản tốt.
Mặt khác, tất cả các TBGD (từ đơn giản đến hiện đại) đều có thể bị hỏng
hóc hay mất mát qua quá trình sử dụng và qua thời gian. Cần tăng cường việc bảo
quản TBGD để kéo dài tuổi thọ và giá trị sử dụng của nó. Bảo quản TBGD đạt


được hai mục đích: bảo vệ được TBGD, loại trừ hoặc hạn chế về cơ bản những hư
hỏng không đáng có và đảm bảo hiệu quả, thuận lợi cho việc sử dụng. Muốn bảo
quản TBGD tốt người cán bộ quản lý cần chỉ đạo cán bộ phụ trách thiết bị làm tốt
công việc của họ, cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (kho tàng, phòng thiết bị,
Phòng học bộ môn,…) và hệ thống sổ sách theo dõi, quản lý.
*. Thiết kế cấu trúc phòng thiết bị và các loại sổ sách cần thiết:
Nhà trường cần đầu tư xây dựng phòng thiết bị riêng, phòng thiết bị cần đảm
bảo các yêu cầu sau:
18


+ Phòng TBGD phải được bố trí ở nơi thoáng mát, cao ráo và sáng sủa,
thuận tiện cho việc đi lại của giáo viên và học sinh nhà trường. Phòng phải đảm
bảo an toàn, kiên cố, không dột nát, đủ ánh sáng để tránh ẩm mốc trong phòng cần
trang bị quạt thông gió, bình cứu hoả, thuốc chống mối mọt, gián, chuột,…
+ Bên trong phòng phải phân ra nhiều lô hoặc nhiều góc. Mỗi lô dành cho
thiết bị của một lớp, mỗi lớp lại chia nhiều ngăn chứa thiết bị, mỗi ngăn là một vị
trí thiết bị của từng môn. Sắp xếp như vậy, khi người cán bộ thiết bị hoặc giáo viên
cần sử dụng thiết bị của môn nào, của lớp nào có thể tìm thấy ngay không phải mất
công tìm kiếm.
+ Các TBGD được đánh mã số theo sơ đồ. Nghĩa là mỗi thiết bị đã nằm
trong phòng thiết bị đều có tên, có mã số và vị trí nhất định. Như vậy rất tiện cho
việc lấy ra sử dụng và khi cất cũng để đúng vị trí. Ngăn nắp, khoa học là một trong
những nguyên tắc cần thiết của bảo quản.
+ Áp dụng linh hoạt các kiểu sắp xếp thấp ở ngoài, cao ở trong, bé ở ngoài,
to ở trong. Những đồ vụn vặt có thể để trong khay. Những đồ dùng thường xuyên
sử dụng thì ưu tiên để ở vị trí dễ lấy nhất như xếp đặt ở phía ngoài, hoặc ở vị trí
vừa tầm lấy. Nếu TBGD là tranh ảnh, biểu bảng,…cần được treo vào các giá tự
thiết kế gắn trên tường hoặc các giá treo theo từng phân môn. Tranh ảnh hiện nay
được trang bị khá nhiều nên ngay từ đầu cần được phân theo chương trình, theo


học kỳ, theo từng lớp, từng môn để dễ lấy, tránh sự quá tải cho các giá treo, đảm
bảo thẩm mỹ để tạo tâm thế tốt cho giáo viên và học sinh.
Tóm lại, TBGD để trong phòng cần thực hiện theo nguyên tắc dễ tìm, dễ
thấy và dễ lấy. Sắp xếp TBGD theo nguyên tắc này người phụ trách thiết bị sẽ luôn
đáp ứng được nhu cầu của giáo viên và học sinh một cách nhanh nhất.
* Xây dựng hệ thống sổ sách:
TBGD dạy học khi giáo viên mượn phải được ký vào sổ theo dõi mượn trả.
Khi giáo viên trả TBGD cán bộ phụ trách thiết bị cần kiểm tra kỹ, nếu mất mát, hư
hỏng cần có biện pháp xử lý kịp thời, cụ thể. Nếu coi thường công việc này sẽ dẫn
đến thất thoát thiết bị, xếp đặt lộn xộn và như vậy sẽ mất nhiều công tìm kiếm cho
các lần sử dụng tiếp theo.
19


Mẫu sổ theo dõi mượn, trả TBGD:
Họ và tên
người mượn

Mục đích
sử dụng

Tên TBGD

Ngày
mượn


tên

Ngày


trả


tên

Khi nhận các TBGD được cấp , hay thiết bị do nhà trường tự trang bị hoặc TBGD
do giáo viên tự làm cán bộ phụ trách thiết bị cũng cần có sổ để nhập TBGD và
thống kê được số TBGD hiện có.
Mẫu sổ nhập thiết bị:
Tên TBGD
được trang
bị

Ngày

Tình trạng
của TBGD

Người giao
(ký tên)

Số lượng

Người nhận
(ký tên)

Cuối mỗi năm học ban CSVC, TBGD cùng cán bộ phụ trách thiết bị cần
kiểm kê lại toàn bộ số TBGD nhà trường có, đánh giá được tình trạng của thiết bị
và tần suất sử dụng theo mẫu sổ sau:
Sổ theo dõi tình trạng TBGD :


Tên
TBGD

Tình trạng
Còn
Mất Hỏng
tốt

Tần suất sử
dụng ( Số lần

Hiệu quả sử dụng
Tốt

Khá

TB

Yếu

Đề
xuất

Hệ thống sổ sách dùng để giúp cán bộ thiết bị quản lý thiết bị tiện lợi hơn,
nếu biết cách ghi chép khoa học thì khi tìm, khi kiểm tra cũng rất dễ dàng. Nhà
trường cần trang bị cho phòng thiết bị một máy vi tính để tiện cho việc quản lý hệ
thống TBGD trên máy.
c.Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá việc xây dựng, sử dụng và bảo
quản TBGD :
Kiểm tra gồm điều tra, xem xét, đánh giá quá trình quản lý và sử dụng


TBGD có hiệu quả, có phù hợp với mục tiêu, kế hoạch chuẩn mực, quy chế đã đề
20


ra hay không; chỉ ra những lệch lạc, từ đó có thể xác định lại phương hướng, mục
tiêu, điều chỉnh, uốn nắn, giúp đỡ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng
TBGD.
Kiểm tra để tạo lập mối liên hệ thông tin ngược trong quản lý TBGD. Việc
sử dụng TBGD trong quá trình dạy học phức tạp, đa dạng, phong phú song không
được phép sai lầm. Do đó, Phó hiệu trưởng cần thường xuyên kiểm tra để phát
hiện, phòng ngừa, đánh giá chính xác nhằm động viên, nhắc nhở, điều chỉnh kịp
thời cho phù hợp với mục tiêu đề ra.
Người cán bộ quản lý có thể kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ, không nhất thiết
phải dự giờ, thăm lớp mới có thể nắm bắt được tình trạng sử dụng TBGD của giáo
viên. Hiệu trưởng có thể xem mẫu phiếu đăng ký sử dụng TBGD của giáo viên đã được
đăng ký tại phòng thiết bị sau đó có thể đột xuất kiểm tra một vài lớp, một vài giáo
viên, qua đó có thể thấy rõ giáo viên có thực sự sử dụng TBGD hay không?
Thông qua các buổi kiểm tra chuyên môn hay kiểm tra toàn diện giáo diên,
Phó hiệu trưởng có thể nắm bắt được kỹ năng sử dụng, khai thác TBGD của giáo
viên, cũng có thể nắm bắt được tình trạng của một số TBGD nhà trường hiện có.
Cũng cần kiểm tra công việc của cán bộ phụ trách thiết bị thông qua việc
kiểm tra sự sắp xếp phòng thiết bị, thông qua hệ thống sổ sách hay qua trao đổi với
giáo viên.
Nói chung, có nhiều hình thức để kiểm tra, nhưng quan trọng là sau khi kiểm
tra Hiệu trưởng cần có những kết luận, đánh giá đúng mức, lấy đó làm cơ sở để xét
khen thưởng và kỷ luật một cách phân minh rõ ràng. Thông qua kiểm tra giúp sửa
chữa kịp thời hầu hết các lệch lạc có thể xảy ra đồng thời khuyến khích động viên
cái tốt, truyền bá những kinh nghiệm hay trong thực tiễn. Làm như vậy mới phát
huy được tác dụng của công tác kiểm tra.
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp


TBGD là điều kiện không thể thiếu trong quá trình dạy học. Vai trò và
những khả năng sư phạm của nó đã được lý luận dạy học khẳng định. Phó hiệu
trưởng phụ trách TBĐD dạy học phải là người có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, vị
trí, vai trò của TBGD trong mọi quá trình sư phạm của nhà trường, đồng thời làm
21


cho các thành viên của hội đồng sư phạm và học sinh thấy rõ mối quan hệ giữa
TBGD với phương pháp và chất lượng dạy học và là người chịu trách nhiệm quản
lý toàn diện TBGD, đồng thời là người có trách nhiệm bảo quản, sử dụng và phát
huy hiệu quả của TBGD trong mọi vấn đề đặt ra bằng mọi biện pháp.
Tham mưu với Hiệu trưởng nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục,
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân và chính quyền địa phương, huy động mọi nguồn
lực để từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống TBGD đáp ứng nhu cầu đổi mới
giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Trang bị TBGD phải tiến hành đồng bộ với việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các
điều kiện để sử dụng PTKTDH hiện đại.Cần bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tập
huấn kỹ năng nghiệp vụ sử dụng, khai thác TBGD, tăng cường biện pháp hành
chính trong việc sử dụng và bảo quản TBGD,…Tổ chức tốt các phong trào hội
giảng hội học, phong trào tự làm và sưu tầm TBGD
Thực hiện chế độ kiểm tra, kiểm kê theo định kỳ và đột xuất, đặc biệt khi có
những thay đổi về tổ chức, biến động do chủ quan hay khách quan. Thông qua
kiểm tra đánh giá chính xác và khen thưởng chính đáng những tập thể và cá nhân
có thành tích cao, kịp thời nhắc nhở, giúp đỡ giáo viên chưa có ý thức sử dụng
TBGD, điều chỉnh kịp thời những thiếu sót, bất hợp lý trong công tác quản lý,
làm cơ sở để xây dựng kế hoạch lần sau.
3.4. Kết quả
Từ thực tế thực hiện trong năm học 2014 - 2015 của vấn đề nghiên cứu đã
thu được kết quả là:
- Tìm hiểu được cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của vấn đề.


- Điều tra được thực trạng công tác quản lý thiết bị đồ dùng dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường Tiểu học.
- Xây dựng được một số biện pháp giúp Phó hiệu trưởng nhà trường trong
công tác quản lý thiết bị đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở
trường Tiểu học.
Với các biện pháp trên năm học 2014 - 2015 áp dụng tại trường tiểu học
Quyết Thắng đã đạt được kết quả như sau:
22


- Cơ sở vật chất thiết bị đồ dùng dạy học được nhà trường đầu tư ngày càng
hoàn thiện.
- Giáo viên nhà trường đã tích cực sưu tầm và làm đồ dùng dạy học có giá trị
sử dụng trong các tiết học.
- 100% giáo viên đẫ sử dụng các thiết bị đồ dùng dạy học và 50% giáo viên nhà
trường đã sử dụng phòng học thông minh trong các tiết học và đạt hiệu quả cao.
- 100% giáo viên nhà trường thành thạo tin học, khai thác được các thông tin
trên mạng và thiết kế được các Bài giảng điện tử để giảng dạy một cách có hiệu quả.
- Hệ thống sổ sách theo dõi mượn trả đồ dùng dạy học khoa học, dễ theo dõi.
- Đồ dùng dạy học trong phòng thiết bị được sắp xếp khoa học, gọn gàng, đễ
tìm,dẽ lấy.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1.Kết luận:
Qua nghiên cứu của bản thân, so sánh đối chiếu lý luận và thực tiễn của vấn
đề, qua tìm hiểu thực trạng trường Tiểu học nơi tôi công tác, tôi mạnh dạn đề xuất
một số biện pháp quản lý của Phó hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
TBGD trong nhà trường. Hy vọng với các biện pháp nêu trên, nhà trường có thể
xem xét nghiên cứu và thực hiện dần từng bước để trong những năm tới nhà trường
sẽ có được một hệ thống TBGD hoàn thiện và sử dụng, khai thác chúng một cách
hiệu quả nhất góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường,


nâng cao uy tín và vị thế của nhà trường trong cộng đồng.
2. Kiến nghị.
Để đề tài được thực hiện một cách thuận lợi, TBGD được sử dụng hiệu quả,
tôi xin có một số ý kiến đề xuất sau:
* Đối với các công ty sản xuất TBGD :
- Cần sản xuất các TBGD đạt tiêu chuẩn về tính chính xác, tính thẩm mỹ,
tính sư phạm, giá thành hợp lý và độ bền cao.
- Sản xuất TBGD đồng thời với việc in ấn các tài liệu hướng dẫn sử dụng,
khai thác TBGD.
* Đối với cấp trường và giáo viên:
23


- Đảm bảo các điều kiện cần thiết như trong phần biện pháp đã đề cập.
- Tăng cường giao lưu, học hỏi, tham khảo cách làm của trường bạn. Chủ
động tiếp cận chương trình sách giáo khoa mới, các phương tiện dạy học hiện đại,
các tài liệu tham khảo, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động trong
việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học với sử dụng TBGD.
Mạo Khê, ngày 25 tháng 3 năm 2015
Người viết

Hoàng Thị Thu Hà
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO - PHỤ LỤC
1. Trịnh Anh Cường - Quản lý CSVC và TBGD trong trường tiểu học – Giáo trình
đào tạo cử nhân quản lý giáo dục tiểu học.Trường Cán bộ
QLGD & ĐT.Hà Nội, 2005.
2. Trần Quốc Đắc

(Tái bản lần thứ nhất – 2004 ). Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng, sử dụng CSVC & TBGD ở trường


phổ thông Việt Nam.

3. Hoàng Đức Nhuận Cải tiến TBGD nhằm đổi mới phương pháp dạy học ở
trường phổ thông – TTKHGD SỐ 53.
4. Ngô Quang Sơn

Vai trò của TBGD và việc đánh giá hiệu quả sử dụng TBGD
trong quá trình dạy học tích cực. Thông tin quản lý giáo dục
số 3 năm 2005.

5. Ngô Quang Sơn

Quản lý CSVC & TBGD – Bài giảng lớp cử nhân quản lý
Bắc Giang.

6. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX.
7. Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII.
9. Nghị quyết 40 - Quốc hội khoá X.
8. Luật hiáo dục, NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2005.
24



Sáng kiến kinh nghiệm của phó hiệu trưởng tiểu học

  • doc
  • 33 trang

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"PHÓ HIỆU TRƯỞNG VỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỂ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC"

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1.1. Cơ sở pháp lí:
Giáo dục và Đào tạo có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với công cuộc
đổi mới đất nước.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã định hướng phát triển giáo dục
đào tạo là: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả
năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên”.
Thực hiện Nghị quyết 40/ 2000/ QH khóa X (9.12.2000) về Đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông và thay sách giáo khoa bậc tiểu học (từ lớp
1 đến lớp 5), từ năm học 2002 – 2003 đến nay chương trình tiểu học mới đã
được triển khai hoàn thành trên toàn quốc.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động " Hai không", phong trào “ Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục phát động.
Thực hiện tốt phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh"
Là năm học thứ hai thực hiện chủ đề năm học: “ Đổi mới công tác quản
lývà nâng cao chất lượng dạy học”
Song song với việc đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa là
việc đổi mới phương pháp dạy học.
Bên cạnh sự quan tâm của gia đình và nhà trường, các em còn được
Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm bằng những quy định cụ thể trong các
luật và công ước:
- Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1990)
- Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 1990)
- Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (năm 1991)
- Pháp luật giáo dục (năm 2006)

Trong Điều 2, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học của Nhà nước ta đã
khẳng định: “Bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc
dân”.
Hiện nay tất cả các cấp học, ngành học đều ra sức thực hiện chủ trương
“Đổi mới phương pháp dạy học” nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo.
1.2 Lý do chọn đề tài:
Dạy học ở tiểu học là một nghề. Nghề dạy học ở tiểu học có những
điểm giống nghề dạy học ở các bậc học khác, nhưng có đặc thù riêng về mặt
sư phạm mà người làm nghề dạy học ở bậc học khác không cần hoặc không
có được.
“ … bậc tiểu học được coi là bậc khó nhất. Tuy kiến thức khoa học
đâu có bao nhiêu nhưng mà khó thành công. Nó đòi hỏi ở người thầy kiến
thức sư phạm rất cao. Toàn bộ bản lĩnh của người thầy ở đây đòi hỏi hết
sức khắt khe so với bậc học cao hơn.” (Trần Hồng Quân – Một số vấn đề về
giáo dục tiểu học – Tạp chí GDTH 1995).
Để đáp ứng được những yêu cầu mới trong thời kì công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước về sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài thì giáo dục phải được phát triển đạt trình độ mới. Giáo dục
tiểu học có vai trò quan trọng vì nó là bậc học nền tảng, là bậc học đầu tiên
của hệ thống giáo dục thuộc nền văn minh nhà trường của mỗi quốc gia, là
bậc học của 100% dân cư và từ thế hệ trẻ em ngày nay thì toàn dân đều qua
ghế nhà trường tiểu học: Giáo dục tiểu học là yêu cầu bắt buộc đối với toàn
dân trong thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Giáo dục nói chung và
giáo dục tiểu học nói riêng là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà Nhà nước và
của toàn dân.
Việc đảm bảo chất lượng học tập cho học sinh tiểu học đòi hỏi phải đổi
mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ truyền đạt tri thức thụ
động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức. Dạy cho người học phương pháp tự học.
Để vận dụng có hiệu quả phương pháp dạy học mới vào quá trình dạy
học không dễ dàng chút nào bởi cách nghĩ cách làm cũ đã ăn sâu vào tiềm
thức của mỗi thầy giáo, cô giáo cũng như cán bộ quản lý.
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà ngành giáo dục đã đạt được, giáo
dục nước ta còn yếu về chất lượng, hiệu quả giáo dục chưa cao, đội ngũ giáo
viên còn yếu, cơ sở vật chất còn thiếu, công tác quản lý chậm đổi mới. Một
trong những nguyên nhân yếu kém là do trình độ quản lý giáo dục chưa theo
kịp với thực tiễn.

Đặc biệt, trong năm học 2010- 2011 toàn ngành tiếp tục thực hiện cuộc
vận động “HAI KHÔNG” với 4 nội dung và cuộc vận động “ Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Là một cán bộ quản lý tôi luôn
trăn trở: Mình phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy học của trường Tiểu
học Thị trấn Châu Ổ nói riêng và của toàn ngành nói chung.
Đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy học là vấn
đề cấp bách cần được quan tâm.
Xuất phát từ những lý do nêu trên nên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài:
“PhóHiệu trưởng với công tác chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học để
nâng cao chất lượng dạy- học ở trường tiểu học”.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nắm được tình hình đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học.
Một số biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao
chất lượng dạy - học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu các cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học, đổi mới
phương pháp dạy học.
Tìm hiểu thực trạng và đánh giá nguyên nhân dổi mới phương pháp
dạy học ở tiểu học.
Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo hoạt động dạy học theo hướng tích
cực hóa hoạt động của người học nhằm giữ vững chất lượng dạy học ở
trường tiểu học.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học của Phó Hiệu
trưởng để nâng cao chất lượng dạy - học ở trường tiểu học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi vấn đề
Kế hoạch, biện pháp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới phương pháp
dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy - học.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
của giáo viên. Các biện pháp chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học cuả Phó
Hiệu trưởng trường Tiểu học Thị trấn Châu Ổ – Bình Sơn – Quảng Ngãi.
Thời gian: Từ năm học 2008 – 2009 đến tháng 10 năm 2011.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận.
Tìm đọc các tài liệu có liên quan đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học.
4.2. Phương pháp quan sát
Dự giờ thăm lớp; nắm kết quả đánh giá chuyên môn hàng năm, kết quả
dự giờ đột xuất, thao giảng.
Tham khảo hồ sơ quản lí: kế hoạch sổ theo dõi giáo viên và học sinh;
việc tổ chức ra đề, kiểm tra, chấm bài, đánh giá và xếp loại học sinh.
4.3. Phương pháp điều tra phỏng vấn
Dùng phiếu thăm dò giáo viên, học sinh để thu thập thông tin về vấn
đề đổi mới phương pháp dạy học.
Trưng cầu ý kiến về đổi mới phương pháp dạy học và biện pháp chỉ
đạo đổi mới phương pháp dạy học.
4.4. Phương pháp thống kê:
Thống kê số liệu biểu đồ so sánh về đổi mới phương pháp, chất lượng
dạy học trong 2 năm học 2008 – 2009 và 2009 – 2010.
4.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Xem hồ sơ giáo án của giáo viên, kết quả kiểm tra định kì, đột xuất của
nhà trường; xem vở học sinh và các bài kiểm tra đã chấm. Kết quả chất
lượng giáo dục học sinh trong 2 năm ở trường Tiểu học Thị trấn Châu Ổ.

PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1.1.Phó Hiệu trưởng :
Phó Hiệu trưởng là người giúp việc cho Hiệu trưởng và chịu trách
nhiệm trước Hiệu trưởng. Quyền hạn và nhiệm vụ của Phó Hiệu trưởng được
quy định ở điều 18 của Điều lệ trường tiểu học.
1.2. Nhà trường:
Nhà trường là một thiết chế xã hội trong đó diễn ra quá trình giáo dục
và đào tạo; là nơi triển khai mô hình giáo dục nhất định, trong đó có sự hoạt
động tương tác giữa hai nhân tố cơ bản làThầy và Trò. Trường học là một bộ
phận của cộng đồng và trong guồng máy của hệ thống giáo dục Quốc dân, nó
là đơn vị cơ sở.
1.3. Quản lí nhà trường :
Quản lí nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu như cộng tác, tham
gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp của chủ thể quản lý đến tập thể
cán bộ giáo viên và học sinh.
1.4. Chất lượng dạy học:
Chất lượng dạy học là thực hiện đầy đủ nhiệm vụ nội dung dạy học để
đạt hiệu quả cao.
1.5. Hoạt động dạy học :
1.5.1. Hoạt động:
Đặc trưng bản chất của nền tảng hoạt động là tính chủ thể và tính có
đối tượng. Trong hoạt động có sự hiện diện của hai đối tượng: chủ thể và
khách thể.
1.5.2. Dạy và học:
Trong dạy học, học là một hoạt động có đối tượng, trong đó học sinh
là chủ thể, khái niệm khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh.
Dạy học là sự điều khiển tối ưu quá trình học sinh chiếm lĩnh kiến
thức, hình thành nhân cách cho học sinh.
Dạy và học có mục đích khác nhau. Học nhằm vào việc chiếm lĩnh
kiến thức còn dạy có mục đích điều khiển việc học tập. Dạy và học có sự

thống nhất biểu hiện ở sự tương tác qua lại giữa chủ thể và đối tượng, đó
chính là hoạt động cộng tác giữa dạy và học.
Nói đến dạy – học là nói tới vị trí và mối quan hệ giữa giáo viên –
học sinh – môi trường và điều kiện dạy học
MÔI TRƯỜNG VÀ ĐIỀU KIỆN
(Lớp học, giáo viên, sách giáo khoa,
thiết bị dạy học, thời lượng dạy học tối thiểu)

GIÁO VIÊN

- Lập kế hoạch
- Tổ chức
- Hướng dẫn
- Hợp tác

HỌC SINH

- Tham gia
+ Tích cực
+ Hứng thú
- Trách nhiệm
+ Phát hiện
+ Chiếm lĩnh
+ Vận dụng

- Ảnh hưởng
- Thích nghi
- Hỗ trợ

KHÁI NIỆM KHOA HỌC

Theo lý luận dạy học của giáo sư Nguyễn Trọng Quang, sự tương tác
theo kiểu cộng đồng hợp tác giữa dạy và học là diều kiện để duy trì và phát
triển sự thống nhất toàn vẹn của quá trình dạy học. Đó là chất lượng dạy
học.
SƠ ĐỒ CẤU TRÚC QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
(Theo giáo sư Nguyễn Trọng Quang)
KHÁI NIỆM KHOA HỌC

DẠY

HỌC

Truyền đạt

Lĩnh hội

Điều khiển

Tự điều khiển

1.6. Phương pháp:
Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện là tổ hợp các bước
mà trí tuệ phải đi theo để tìm ra chứng minh chân lý.
1.7. Phương pháp dạy học:
Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên – học sinh
gồm phương pháp dạy (hoạt động của học sinh) thể hiện ở mặt bên ngoài
(các thao tác hành động của giáo viên và học sinh) và mặt bên trong (cách tổ
chứchoạt động nhận thức của học sinh). Phương pháp dạy học nhằm đạt mục
tiêu dạy học.
2. ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG .
2.1. Tính cấp thiết:
Sự phát triển của xã hội có tác động trực tiếp và gián tiếp tới quá trình
dạy học nói chung và phương pháp dạy học nói riêng.
Đáp ứng nhu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nghị quyết 40/ QH khóa X.

2.2. Định hướng chung:
Phương pháp dạy học mới là phương pháp tích cực hóa hoạt động của
người học. Đó chính là phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm.
Trong đó thầy cô gióa đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của học sinh;
mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và
được phát triển. Kiểu dạy học này giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức, kĩ
năng kĩ xảo, thái độ, phát huy tối đa năng lực của các em.
2.3. Đặc trưng cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học:
- Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo cho học sinh.
- Bồi dưỡng phương pháp tự học.
- Rèn kĩ năng hợp tác.
- Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm đem lại niềm vui hứng thú cho học sinh.
Tóm lại : Đổi mới phương pháp dạy học tiến hành đồng bộ với đổi mới
nội dung dạy học, đổi mới thiết bị dạy học, đổi mới cách đánh giá và xếp
loại học sinh. Kết hợp các yếu tố trên một cách nhuần nhuyễn mới tạo “ chất
mới” của phương pháp dạy học.
Trong giờ học theo phương pháp mới, hoạt động của giáo viên đóng vai
trò rất quan trọng.

GIÁO VIÊN

Giao việc
cho học
sinh trình
bày

Kiểm tra
học sinh

Tổ chức
cho HS báo
cáo kết quả
làm việc.

Tổ chức
đánh giá.

Giáo viên là người chốt lại kiến thức sau mỗi hoạt động, bài tập, bài
học.
2.4. Một số phương pháp dạy học cụ thể theo quan điểm đổi mới :
- Phương pháp tích cực.
- Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.

- Phương pháp hợp tác.
- Phương pháp kích thích tư duy.
- Phương pháp thí nghiệm nghiên cứu.
- Phương pháp giao tiếp.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp trực quan.
SO SÁNH GIỮA HAI PHƯƠNG PHÁP
Phương pháp dạy học mới
Phương pháp dạy học cũ
Các yếu
Hướng tập trung vào học
tố
Thầy dạy làm trung tâm
sinh
Nội
dung

Xây dựng khái niệm giải quyết Thực hiện truyền thụ thông
vấn đề.
tin, sự kiện có sẵn.
- Tìm tòi.

Phương
pháp

- Khám phá giải quyết vấn đề.
- Người học chủ động.

- Ghi nhớ.
- Tập trung vào bài giảng.
- Người nghe chăm chú.

- Giáo viên là người tổ chức
- Giáo viên là quyền uy.
hướng dẫn học sinh tìm tòi.

Môi
trường

- Tự chủ, thân mật, không hình - Không khí lớp học hình
thức. Học sinh tự do trao đổi.
thức, nghiêm ngặt. Thầy
nói trò nghe.
- Chỗ ngồi linh hoạt.
- Sắp xếp chỗ ngồi cố định.
- Sử dụng thường xuyên các kĩ - Dùng kĩ thuật dạy học
bằng lời nói, chữ viết.
thuật dạy học.

- Tri thức có sẵn.
- Tri thức tự tìm.

- Trình độ nhận thức chủ
- Phát triển cao hơn về nhận yếu là ghi nhớ.
Kết quả thức kể cả tình cảm và hành vi.
- Tự tin.
- Phụ thuộc vào tài liệu.
- Biết tự xác lập các giá trị.

- Chấp nhận kết quả giá trị
truyền thống.

3. QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC :
3.1. Quản lý giáo dục :
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích có kế hoạch
hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống vận hành theo
đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được tính chất của nhà
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học –
giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ thống tới mục tiêu dự kiến có trạng thái mới về
chất.
3.2. Quản lý hoạt động dạy học :
Quản lý hoạt động dạy học là quản lý hoạt động dạy của thầy và hoạt
động học tập của trò để đạt được những mục tiêu về quản lý nhằm thực hiện
các nhiệm vụ dạy – học đạt được chất lượng và hiệu quả.
Tiến sĩ Phan Thế Sủng đã đưa ra mô hình quản lý quá trình dạy học như
sau:

QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

HOẠT ĐỘNG DẠY
Dạy học tốt

Phương
pháp dạy

Mục đích dạy học
Nhiệm vụ dạy học

Kiểm tra
- HK I
- HK II
- Cả năm
- TN

Sản phẩm dạy học
Chất lượng hiệu quả

Bài học
Điều kiện
dạy học

Phương pháp
học

Phương pháp

3.3.Vị trí, nhiệm vụ, chức năng của quản lý hoạt động dạy học:
3.3.1. Vị trí :
Quản lý hoạt động dạy học có vị trí rất quan trọng vì thực chất đó là
việc quản lý trường học. Đối tượng quản lý là cán bộ công nhân viên chức –
giáo viên- học sinh ở hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp.
3.3.2. Nhiệm vụ :
Quản lý việc dạy của thầy và việc học của trò. Thực hiện nghiêm túc,
đầy đủ nội dung, chương trìng ở tất cả các lớp.
Xây dựng nền nếp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học.
3.3.3. Chức năng :
Chức năng tổng hợp: Phát triển nhân cách, nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Chức năng phối hợp trong: Liên kết phối hợp với các lực lượng bên
trong nhà trường để thực hiện chức năng dạy chữ, dạy người, dạy nghề.
Chức năng phối hợp ngoài: Liên kết phối hợp với gia đình, xã hội, các
cơ sở giáo dục, các trung tâm văn hóa khoa học kĩ thuật… là điều kiện tối ưu
hóa việc quản lý hoạt động dạy học.

Tóm lại : Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang bước vào nền kinh tế
hội nhập, đòi hỏi phải có những con người năng động có kiến thức kĩ năng
để dáp ứng sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiệm vụ của nhà trường trong giai
đoạn này đã được đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: “ Ưu tiên hàng đầu
cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng
cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc
lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên”.
Chính vì vậy, chất lượng dạy học là điều kiện tiên quyết để tạo ra
những con người mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌCĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌCỞ TRƯỜNG TIỂU HỌC
THỊ TRẤN CHÂU Ổ
1. TÌNH HINH CHUNG CỦA ĐỊA PHƯƠNG VÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC
THỊ TRẤN CHÂU Ổ HUYỆN BÌNH SƠN :
1.1. Tình hình địa phương :
Thị trấn Châu Ổ, huyện Bình Sơn nằm ven quốc lộ 1A. Người dân chủ
yếu sống bằng nghề buôn bán nhỏ, một phần lớn sống bằng nghề nông. Điều
kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Trong năm 2008, chợ Châu Ổ bị cháy đã
ảnh hưởng lớn đến đời sống của đa số bà con tiểu thương dẫn đến việc học
của học sinh gặp không ít khó khăn. Kinh tế vừa mới tạm phục hồi thì bão số
9 năm 2009 lại gây thiệt hại cho toàn bộ bà con tiểu thương buôn bán tại chợ
tạm và rất nhiều hộ ở tất cả 6 khu dân cư. Vì vậy, khó khăn cho học sinh
trong năm học 2009 -2010 và năm học 2010-2011 là điều không thể thể tránh
khỏi.
1.2. Tình hình nhà trường :
Trường Tiểu học Thị trấn Châu Ổ được thành lập năm 1992 (tách ra từ
trường Phổ thông cấp I, II Bình Thới). Trường có 3 điểm trường cách nhau
1 km. Cơ sở vật chất của trường đủ cho việc dạy và học. Có 10 phòng học
tầng được làm từ chương trình kiên cố hoá trường học và đã đưa vào sử dụng
từ năm học 2010-2011. Các phòng học còn lại và phòng làm việc đều là nhà
cấp 4. Các điểm trường đều có tường rào, nhà vệ sinh, sân chơi, cây xanh…

Trường đã đạt trường chuẩn quốc gia từ năm 1999 và đang phấn đấu
đến năm học 2011- 1012 đạt trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 2.
1.2.1. Đội ngũ CB-GV và học sinh:
- Tổng số CB-GV: 38 người
Trong đó: BGH

:2

-

nữ: 1

Giáo viên : 34 -

nữ: 30

Kế toán

nữ: 1

:1

-

- Tổng số học sinh:
Năm học 2008 – 2009: 764 em -

24 lớp

Năm học 2009 – 2010: 804 em -

25 lớp

1.2.2. Trình độ chuyên môn :
Đại học

:7

CĐSP

: 13

THSP 12+2 : 17
Trung cấp kế toán: 1
Giáo viên dạy giỏi tỉnh

:8

Giáo viên tổng phụ trách đội giỏi cấp tỉnh : 2
Giáo viên thư viện giỏi cấp tỉnh

:1

Giáo viên dạy giỏi huyện

: 23

:
1.3. Thuận lợi :
- Được sự quan tâm của Đảng ủy – UBND – HĐND Thị trấn Châu Ổ.
- Phòng giáo dục chỉ đạo sát sao, kịp thời.
- Chi bộ Đảng vững mạnh, có 13 đồng chí đều rất nhiệt tình, là hạt
nhân lãnh đạo của trường.
- Đội ngũ cán bộ quản lí làm việc đúng chức năng và quản lí mọi hoạt
động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng.
- Giáo viên nhiệt tình, nghiệp vụ sư phạm vững vàng.
- Các tổ chức đoàn thể trong trường có sự phối hợp tốt, hoạt động đạt
hiệu quả cao.
- Học sinh ngoan, có động cơ học tập tốt.

- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em.
1.4. Khó khăn :
- Cơ sở vật chất còn thiếu phòng chức năng.
- Thiết bị dạy học thiếu, nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc dạy
học.
- Một số phụ huynh phó mặc con em của mình cho nhà trường.
- Một số em ngoài giờ học phải phụ giúp cha mẹ buôn bán hoặc làm
thêm ở chợ như khâu dép, bán kem, nước uống,… nên ảnh hưởng đến kết
quả học tập.
- Việc vận dụng phương pháp dạy học mới có lúc có nơi còn hạn chế.
- Đầu tư nghiên cứu trong soạn giảng chưa sâu dẫn đến lúng túng trong
quá trình tổ chức dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.
2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, KHẢO SÁT :
2.1. Về hoạt động dạy của giáo viên :
2.1.1. Việc soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp :
Qua kết quả kiểm tra định kì và kiểm tra đột xuất của BGH, việc soạn
bài của giáo viên trong hai năm học 2008 – 2009 và 2009– 2010 như sau:

Năm học
2008
2009

-

2009
2010

-

Trung
bình

TS Tốt
GV
SL

Khá
TL

SL

33

33

100

0

0

0

34

34

100

0

0

0

TL

SL

Yếu
TL

SL

TL

So sánh kết quả soạn bài của giáo viên trong 2 năm học 2008 – 2009 và
2009 – 2010 ta thấy chất lượng soạn bài của giáo viên được ổn định và giữ
vững.
Việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học đồi hỏi
bài soạn cũng phải đáp ứng yêu cầu đổi mới và giáo viên đã đáp ứng được
yêu cầu đặt ra.

2.1.2. Dự giờ và đánh giá giáo viên .
Trong 2 năm học 2008 – 2009 và 2009 – 2010 trường đã tiến hành dự
giờ mỗi giáo viên 3 tiết/ năm để đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu
học.
Hầu hết giáo viên đều chuẩn bị bài kĩ, có sử dụng đồ dùng dạy học và
vận dụng các phương pháp tương đối tốt và linh hoạt.
Trong các giờ dạy, giáo viên đã tổ chức các hoạt động hợp lí do đó đã
phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình khám
phá, lĩnh hội kiến thức.
Chất lượng giờ dạy của giáo viên ngày càng được nâng cao. Trong 2
năm học giáo viên đạt loại tốt 100%.
Kết quả cụ thể:

Xếp loại chuyên môn nghiệp vụ
Năm học

2008 – 2009
2009 – 2010
34

TS
Tốt
GV

Trung
bình

Khá

SL

TL

SL

32

32

100

0

34

100

0

TL

SL

Yếu
TL

0
0

SL

TL

0
0

2.2. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học Thị trấn
Châu Ổ .
2.2.1. Sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề, thao giảng, đổi mới phương
pháp dạy học .
Sinh hoạt chuyên môn được tổ chức 2 lần/ tháng. Tất cả những vấn đề
khó khăn hoặc vướng mắc đều được bàn bạc để đi đến thống nhất. Nhà
trường thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên đề như: “ Bồi dưỡng học sinh
giỏi”, “Sử dụng đồ dùng dạy học”, “ Đổi mới phương pháp dạy học”, “
Dạy tích hợp Giáo dục bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm năng lượng
điện, dạy các tiết địa phưủctong các môn học”…
Hàng tháng các khối đều tổ chức thao giảng.

Tham gia thao giảng cụm 2lần/năm theo kế hoạch của Phòng Giáo dục
và Đào tạo.
2.2.2. Sử dụng đồ dùng dạy học .
Phương tiện, đồ dùng dạy học giúp cho học sinh phát hiện và lĩnh hội
kiến thức. Tuy trường có 3 điểm trường những ngay từ đầu năm giáo viên đã
liên hệ mượn ĐDDH ở thiết bị của trường. Đồ dùng dạy học được để trong
từng lớp nên việc sử dụng thuận tiện. Hàng năm, trường đều có giáo viên dự
thi sử dụng ĐDDH cấp huyện và cấp tỉnh đạt giải cao. Việc sử dụng ĐDDH
nhìn chung chưa được thường xuyên ở một số giáo viên.
2.2.3. Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ .
Công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ luôn được nhà trường quan
tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia các lớp nâng chuẩn
hoặc bồi dưỡng thường xuyên. Đến nay giáo viên của trường đã được đi học
nâng chuẩn đạt tỷ lệ 55,6%. Trường cử 100% giáo viên trực tiếp đứng lớp
tham gia các lớp tập huấn thay sách do Sở giáo dục tổ chức. Các giáo viên
còn lại tham gia lớp tập huấn do Phòng giáo dục tổ chức. Hàng năm cán bộ,
giáo viên tham gia học Bồi dưỡng thường xuyên đạt 100%. Trường có kế
hoạch cho giáo viên đi học nâng chuẩn hàng năm từ 2 giáo viên trở lên. Năm
học 2010-2011 có 2 giáo viên học Cao đẳng tiểu học và 2 giáo viên học Đại
học tiểu học.
2.2.4. Việc áp dụng phương pháp dạy học mới .
Qua khảo sát, đa số giáo viên cho rằng phương pháp dạy học mới phát
huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng
phương pháp đôi khi chưa được linh hoạt nên hiệu quả chưa cao.
2.2.5. Việc thực hiện chương trình .
100% giáo viên thực hiện đúng nội dung chương trình.
2.3. Về hoạt động của trò .
Thông qua hoạt động của trò bằng cách kiểm tra vở ghi chép, vở bài
tập, các bài kiểm tra, sổ điểm, các bài khảo sát để đánh giá thực chất kết quả
học tập của học sinh từ đó kiểm chứng hoạt động dạy của nhà trường.
Việc đánh giá học sinh được thực hiện theo quyết định 30
( năm học 2008-2009) và Thông tư 32 (năm học 2009-2010)
2.3.1. Khảo sát chất lượng đầu năm (môn Toán – Tiếng Việt).
(Không kể khố i 1)

Năm học

2008
2009

Trung
bình

Yếu

SL

SL

TL

Tiếng
633 152 24.0 295 46.6 151 23.9 35
Việt

5.5

Môn
học



Toán

Số Giỏi
bài
SL TL

633 375

Khá
SL

TL

59.3 30.
55
195 8

8.4 10

Tiếng
– Việt 634 226 41,3 301 47.5 61

2009
2010

Toán

TL

9.6

634 360 56.8 192 30.3 67

1.6
10

1.6

10.5 15

2.4

2.3.2. Kết quả học lực môn cuối năm môn Tiếng Việt – Toán.

Năm học

Môn

Trung
bình

Yếu

SL

TL

SL

TL

764 492 64,4 238 31,2 31

4,1

3

0,4

764 554 72,5 179 22,6 33

4,3

4

0,5

803 690 85.7 100 12.4 10

1.2

3

0.4

803 712 88.7 72

2.0

3

0.4

TS

Giỏi
SL

T
– Việt

2008
2009

Toán
T
– Việt

2009
2010

Toán

Khá
TL

SL

TL

9.0

16

2.3.3. Keát quaû xeáp loaïi haïnh kieåm .

Năm học
2008
2009

-

Tổng
số

Đủ

Chưa đủ

SL

TL

SL

TL

764

764

100,0

0

0

2009
2010

-

803

803

100,0

0

2.3.4. Keát quaû danh hieäu thi ñua caû naêm .

Năm học

Học sinh giỏi

Học
tiến

TS

TL

TS

TL

764

446

58,4

183

24,0

803

614

76,5

147

18,3

Tổng số

2008
2009



2009
2010



sinh

tiên

Học sinh lên lớp 99,6%
Học sinh hoàn thành chương trình tiểu học 100%
So sánh chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trường Tiểu học
Thị trấn Châu Ổ trong hai năm học ta thấy chất lượng học sinh năm sau cao
hơn năm trước. Tỉ lệ học sinh giỏi tăng 18,1 %,học sinh yếu dưới 0,5 %.
Học sinh giỏi cấp huyện trong hai năm học đạt 17 em.
Số lượng học sinh yếu vẫn còn do nhiều nguyên nhân: Học sinh khuyết
tật có 2 em. Một số em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ngoài giờ học các em
phải làm thêm ở chợ. Một số khác còn ham chơi điện tử hoặc thiếu sự quản
lí của gia đình.
Trong thời gian qua, việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học đã
được lãnh đạo nhà trường quan tâm đúng mức. Giáo viên có tinh thần tự học,
tự rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ. Nhà trường luôn được sự quan tâm chỉ
đạo của các cấp lãnh đạo. Chất lượng dạy và học của trường ngày một nâng
cao.
3. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN NGUYÊN NHÂN CỦA
BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐỂ GIỮ
VỮNG CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN
CHÂU Ổ .

Tải về bản full