Quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng mới nhất năm 2022

Các ngân hàng Việt Nam có thể vượt qua mọi rủi ro về chất lượng tài sản nhờ vào bộ đệm dự phòng lớn

Đây là nhận định của các chuyên gia nghiên cứu của Công ty chứng khoán VNDirect về tình hình diễn biến, triển vọng và rủi ro trong thời gian tới của ngành ngân hàng.

Ngân hàng vẫn ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận

Các chuyên gia cho rằng, trong quý I/2022, ngân hàng đã đạt tăng trưởng lợi nhuận khá và tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) tăng 22% nhờ vào tăng trưởng tín dụng tốt, thu nhập từ phí khả quan và chi phí tín dụng được kiểm soát tốt. Tín dụng toàn hệ thống tăng 6% từ đầu năm tính đến cuối quý I/2022, cao hơn nhiều so với mức 3,45% vào cuối quý I/2021 nhờ nhu cầu vay lớn nhằm đáp ứng hoạt động kinh doanh phục hồi trở lại sau dịch bệnh. Tuy chất lượng tài sản có phần giảm sút khi tỉ lệ nợ xấu trung bình tăng trong khi tỉ lệ bao nợ xấu giảm nhẹ so với cuối 2021, nhưng "mọi thứ vẫn nằm trong tầm kiểm soát."

Các chuyên gia kỳ vọng, nền kinh tế sẽ tăng tốc trở lại trong giai đoạn 2022-2023 nhờ xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ, nhu cầu phục hồi và các chính sách tài khóa hỗ trợ; ngành ngân hàng là lựa chọn tiêu biểu trong bối cảnh nói trên. Mặc dù biên lãi thuần khó có thể cải thiện do lãi suất huy động tăng, các ngân hàng vẫn sẽ ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận cao 29% và tỉ suất sinh lời ROE 22% trong 2022 dựa trên tăng trưởng tín dụng cao, thu nhập từ phí ổn định và chi phí tín dụng được kiểm soát tốt.

Các ngân hàng có vốn nhà nước còn giảm chi phí chuyển tiền, quản lý tài khoản... từ đầu năm 2022 nhằm thu hút nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ, giúp nâng cao tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (CASA). 

Việc thị trường điều chỉnh gần đây đã đưa định giá ngành ngân hàng xuống 1,46 lần P/BV (hệ số P/BV được sử dụng để so sánh giá thị trường với giá trị sổ sách của một cổ phiếu. Một hệ số thấp có nghĩa là cổ phiếu này được định giá thấp và thích hợp để mua và nắm giữ nó nếu doanh nghiệp có triển vọng tốt trong tương lai). Hệ số P/BV này hiện thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình 3 năm.

Theo NHNN, đến 20/5/2022, tín dụng đạt trên 11 triệu tỷ đồng, tăng 7,66% so với cuối năm 2021. Cơ cấu tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các ngành, lĩnh vực thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro vẫn được kiểm soát chặt chẽ. Thời gian qua, các ngân hàng đã tích cực chia sẻ khó khăn với nền kinh tế với các chương trình giãn nợ, cơ cấu nợ, giảm lãi… Mới đây nhất, các ngân hàng đang tích cực tham gia triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2%. Mặc dù vậy, việc tín dụng tăng cao khiến dư địa tăng thu hẹp, nên cần "nới room" tín dụng vì nếu không sẽ khó triển khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ DN, hộ kinh doanh, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 2%.

Về vấn đề này, ông Nguyễn Việt Cường, Phó Tổng Giám đốc Vietcombank phân tích, sau khi tăng trưởng tín dụng bị hạn chế do ảnh hưởng COVID-19, khi nền kinh tế bước đầu phục hồi, nhu cầu vốn tăng cao. Đến thời điểm hiện tại, tăng trưởng tín dụng đã đạt 9%, do đó Vietcombank đề nghị NHNN xem xét nới room tín dụng phù hợp để các ngân hàng chung tay hỗ trợ tăng trưởng.

Chất lượng tài sản- vẫn trong tầm kiểm soát

Các chuyên gia của VNDirect nhận định, chất lượng tài sản của các ngân hàng đã phần nào bị ảnh hưởng do hậu quả của đại dịch COVID-19, trong đó tỉ lệ nợ xấu (NPL) trung bình quý I/22 tăng trong khi tỉ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) giảm nhẹ so với mức cuối quý IV/21.

NPL trung bình tăng lên 1,5% vào cuối quý I/2022 từ mức 1,39% vào cuối quý IV/2021. Tỉ lệ nợ xấu nhóm 5 tăng nhẹ lên mức 0,58% vào cuối quý I/2022 từ mức 0,51% vào cuối quý IV/2021. Tổng cho vay của 15 ngân hàng niêm yết tăng 6,7% so với đầu năm trong khi nợ xấu tăng 11,4%. Năm ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu NPL thấp nhất gồm Techcombank (0,67%), Vietcombank (0,81%), ACB (0,82%) và MBBank (0,99%).

Nhiều ngân hàng đang giao dịch có hệ số P/BV dưới mức trung bình 3 năm

Nợ xấu tăng lên trong những tháng tới cũng là điều đáng lưu ý khi Thông tư 14 sẽ hết hiệu lực vào cuối tháng 6 năm 2022. Theo NHNN, tỉ lệ nợ xấu nội bảng có thể lên tới 7,3% nếu tính cả các khoản cho vay tái cơ cấu và nợ xấu bán cho VAMC, tương đương mức nợ xấu giai đoạn 2016-2017.

Tuy nhiên, chất lượng tài sản của các ngân hàng đã được cải thiện mạnh mẽ so với giai đoạn 2016-2017. Các ngân hàng đã trích lập dự phòng để tránh khả năng nợ xấu tăng cao, đồng thời LLR đã đạt mức cao nhất lịch sử tại hầu hết các ngân hàng vào cuối năm 2021. Mặt khác, các ngân hàng cũng đã thực hiện trích lập tương đối đầy đủ dự phòng đối với các khoản nợ tái cơ cấu thay vì mức 30% như quy định. Theo chuyên gia, nhờ vào chất lượng tài sản vững chắc và bộ đệm dự phòng mạnh mẽ, các ngân hàng sẽ có thể giảm thiểu được tối đa rủi ro nợ xấu gia tăng trong thời gian sắp tới. Thêm vào đó, các ngân hàng đang nỗ lực tăng cường hệ số an toàn vốn (CAR), điều này được thể hiện qua sự cải thiện CAR trong quý I/2022. Tăng vốn luôn là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng trong năm 2022, đặc biệt là các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước nhằm tăng cường hệ số CAR, tiến tới lộ trình áp dụng Base III. Các chuyên gia kỳ vọng nền kinh tế sẽ tăng tốc vào năm 2022 nhờ xuất khẩu tăng trưởng mạnh, nhu cầu phục hồi và được các chính sách tài khóa hỗ trợ.

Về triển vọng thời gian tới, các chuyên gia nhận định: ngành ngân hàng đã phải đối mặt với không ít khó khăn do lo ngại về lạm phát, mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi (NIM)  thu hẹp và nợ xấu gia tăng khi Thông tư 14 về  cơ cấu lại thời hạn trả  nợ, miễn giảm lãi, giữ  nguyên nhóm nợ kết thúc. Hơn nữa, tâm lý dè chừng đối với cổ phiếu ngân hàng còn đến từ việc Chính phủ có những động thái quản lý và giám sát chặt chẽ hơn đối với thị trường vốn và bất động sản, dù việc này sẽ giúp cải thiện tính minh bạch và bền vững của thị trường trong dài hạn.

Tuy vậy, những thách thức trên sẽ không đem lại hệ quả nghiêm trọng lên toàn ngành và các chuyên gia tự tin rằng ngân hàng sẽ có thể vượt qua rủi ro chất lượng tài sản nhờ vào bộ đệm dự phòng dày dặn và sự kiểm soát chặt chẽ khi giải ngân vào phân khúc bất động sản có rủi ro cao. Một số đợt bán tháo ồ ạt trên thị trường vừa qua đã đưa định giá của các ngân hàng về mức rất hấp dẫn.

Trước đó, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) thẳng thắn cho rằng, áp lực nợ xấu tăng cao là hiện hữu.  Vì vậy, các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng phải tái cơ cấu và phải xử lý nợ xấu. Nếu chưa xử lý được thì phải trích lập dự phòng rủi ro. Tuy nhiên, hiện tại, các TCTD đều thực hiện trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ cho những khoản nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu. Thậm chí có những TCTD có tình hình tài chính lành mạnh đã có tỉ lệ bao phủ nợ xấu cao hơn nhiều so với tỉ lệ nợ xấu thực tế. Do vậy, nhiều TCTD đều đặt vấn đề tăng vốn điều lệ trong năm 2022, qua đó nâng cao năng lực tài chính, mở rộng trích lập dự phòng rủi ro để đảm bảo an toàn hoạt động, tự phòng vệ cho mình. Thông tư 22 của NHNN ban hành từ năm 2019 với lộ trình rõ ràng có quy định giảm tối đa tỉ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn xuống còn 30% kể từ 1/10/2022 sẽ giúp tăng cường tính an toàn thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.

Tuy nhiên, Tổng Thư ký VNBA cho rằng, với thực tế hiện nay, nếu chỉ nỗ lực của ngân hàng là chưa đủ mà cần có hành lang pháp lý đủ mạnh để bảo vệ cả bên cho vay và bên đi vay. Không chỉ vậy, khi có hành lang pháp lý đầy đủ, các bộ, ngành, chính quyền địa phương cũng cần vào cuộc hỗ trợ tích cực trong việc xử lý nợ xấu của ngành ngân hàng.

Huy Thắng


(thitruongtaichinhtiente.vn) - Bất chấp áp lực nợ xấu tăng, NIM có thể điều chỉnh giảm nhẹ… Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) dự báo hoạt động ngân hàng trong nửa cuối năm 2022 vẫn có nhiều tín hiệu tích cực, đặc biệt là về lợi nhuận.

Thông tin trên được đưa ra trong báo cáo “Triển vọng ngân hàng nửa cuối năm 2022” vừa được Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) công bố. Tại báo cáo của VCBS đã đưa ra cái nhìn toàn cảnh về hoạt động ngân hàng trong nửa đầu năm và dự báo hoạt động ngân hàng trong nửa cuối năm 2022.

Ngân hàng có hệ số CAR cao và mô hình quản trị rủi ro tốt sẽ có cơ hội được cấp thêm room tín dụng

Báo cáo của VCBS cho biết, tính đến cuối tháng 5/2022, tín dụng toàn hệ thống ghi nhận mức tăng trưởng 8,04%, cao hơn đáng kể so với mức tăng trưởng 4,67% cùng kỳ 2021 nhờ nhu cầu vốn tăng cao sau dịch bệnh.

Theo VCBS, nhu cầu tín dụng hiện tại ở mức tích cực và kỳ vọng đạt 14% cho cả năm 2022.

Trong những tháng đầu năm, tín dụng bán lẻ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính của tín dụng hệ thống ngân hàng, cụ thể: tỷ trọng tín dụng bán lẻ các ngân hàng niêm yết đã tăng từ mức 31% năm 2015 lên mức 45% tổng dư nợ tại thời điểm cuối quý I/2022, trong đó các sản phẩm cho vay mua nhà, mua ô tô, tài chính tiêu dùng đều ghi nhận mức tăng tích cực.

Cùng với đó, tín dụng bán lẻ và doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng được các ngân hàng ưu tiên hơn nhờ: hệ số rủi ro khi tính CAR ở mức thấp hơn cho vay doanh nghiệp lớn theo Thông tư 41; và  có tỷ suất sinh lời cao hơn.

Tín dụng vào lĩnh vực rủi ro và tiềm ẩn rủi ro tiếp tục được các ngân hàng kiểm soát chặt chẽ, nhất là khi trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) và cho vay lĩnh vực bất động sản được Chính phủ kiểm soát chặt chẽ hơn với mục tiêu giảm thiểu rủi ro và lành mạnh hóa thị trường.

 

Số liệu được VCBS tổng hợp trong báo cáo cho thấy, đến cuối tháng 4/2022, tổng dư nợ lĩnh vực bất động sản của các TCTD tăng 10,19% so với thời điểm cuối năm 2021, chiếm 20,44% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Trong đó khoảng 7% là dư nợ doanh nghiệp kinh doanh BĐS, còn lại là cho vay cá nhân mua nhà.

Một trong những vấn đề nóng được các ngân hàng và thị trường quan tâm thời gian qua, đó là “room tín dụng” cũng được báo cáo của VCBS đề cập khá rõ nét. Theo VCBS, do room tín dụng cấp đầu năm ở mức tương đối thấp, nhiều ngân hàng đã chạm hạn mức tín dụng ban đầu ngay từ cuối quý I/2022 và đang chờ được NHNN nới room.

“NHNN đang xem xét nới room tăng trưởng tín dụng cho nhiều ngân hàng. Chúng tôi kỳ vọng các ngân hàng này sẽ được cấp bổ sung room tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn đầu quý 3/2022”, VCBS kỳ vọng.

Tuy nhiên, để được cấp thêm room tín dụng, các ngân hàng sẽ phải đáp ứng các tiêu chí do cơ quan quản lý đưa ra. Theo đó, các tiêu chí xét duyệt tín dụng của SBV có thể kể đến như mức độ dồi dào vốn chủ sở hữu (hệ số CAR), năng lực quản trị rủi ro (thể hiện qua việc tuân thủ các chuẩn mực Basel II, Basel III, IFRS 9,…), mức độ hỗ trợ NHNN thực hiện nhiệm vụ chính trị xã hội (miễn giảm lãi suất và phí, cơ cấu lại các TCTD,…).

“Chúng tôi cho rằng các ngân hàng có hệ số CAR cao và mô hình quản trị rủi ro tốt như MB, Vietcombank, Techcombank, VPBank, ACB, TPBank, MSB,.. sẽ được cấp hạn mức tín dụng cao hơn trung bình ngành trong dài hạn”, VCBS nhận định và cho biết thêm: “các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc TCTD yếu kém (MB và Vietcombank) sẽ có lợi thế về tăng trưởng tín dụng so với các ngân hàng khác”.

Ở chiều ngược lại, các ngân hàng trong diện cảnh báo có tỷ trọng cho vay các lĩnh vực rủi ro như đầu cơ bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… có thể bị hạn chế room tăng trưởng tín dụng ở mức vừa phải hơn để bảo đảm hạn chế rủi ro hệ thống.

Với việc nhu cầu tín dụng tiếp tục duy trì tích cực, cộng với việc NHNN đang xem xét nới room tín dụng cho các ngân hàng, VCBS dự báo: “tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt 14 – 16% năm 2022”.

Dự báo này được hỗ trợ bởi 2 yếu tố: nền kinh tế hồi phục sau dịch bệnh; và  gói hỗ trợ lãi suất 2% tương ứng với dư nợ khoảng 2 triệu tỷ đồng phân bổ trong 2022 - 2023.

Nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát tốt

Với năng lực quản trị tốt hơn nhiều so với trước đây đã giúp các ngân hàng kiểm soát được tỷ lệ nợ xấu. Thống kê cho thấy, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đã giảm xuống từ mức 1,41% trong quý IV/2021, xuống còn 1,37% vào cuối quý I/2022.

Dẫu vậy, do tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, nhiều ngân hàng đang ghi nhận tỷ lệ nợ Nhóm 2 tăng nhanh do việc phân loại lại nợ từ CIC và các khoản chậm thanh toán theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN.

Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ tái cơ cấu hầu hết đều ghi nhận giảm kể từ quý I/2022 nhờ nền kinh tế mở cửa trở lại. Chi phí tín dụng duy trì ở mức cao khi các ngân hàng tiếp tục tăng cường trích lập trước thời hạn cho các khoản nợ tái cơ cấu.

 

Về thách thức, VBCS cho rằng, việc thị trường bất động sản kém sôi động và giá cả biến động mạnh có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thu hồi nợ xấu do bất động sản là tài sản bảo đảm chính cho phần lớn các khoản vay.

Tuy vậy, với việc Quốc hội đã chính thức phê chuẩn thông qua cho phép kéo dài Nghị quyết 42 đến hết ngày 31/12/2023 sẽ là tín hiệu tích cực giúp các ngân hàng đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu tồn đọng và duy trì tỉ lệ nợ xấu nội bảng dưới mức 2%.

Theo VCBS, nợ xấu dự báo sẽ tăng lên khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực vào cuối tháng 6/2022. Tuy nhiên, áp lực dự phòng được giảm thiểu khi các ngân hàng đã tăng cường bộ đệm dự phòng đối với các khoản nợ tái cơ cấu lên cao hơn mức quy định 30% trong bối cảnh nguồn thu nhập dồi dào.

Với những phân tích trên, VCBS dự báo: “trong nửa cuối năm 2022, nợ xấu và nợ tái cơ cấu cải thiện nhờ sự phục hồi của nền kinh tế”.

NIM có thể đi ngang hoặc điều chỉnh giảm nhẹ

Báo cáo của VCBS cho biết, trong quý I/2022, nhóm ngân hàng thương mại nhà nước ghi nhận lãi suất cho vay duy trì ở mức thấp do thực hiện hỗ trợ miễn giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế, trong khi lãi suất cho vay nhóm ngân hàng tư nhân bắt đầu tăng nhờ nhu cầu tín dụng mạnh mẽ và tăng tỷ trọng cho vay bán lẻ.

Do áp lực lãi huy động đang có xu hướng tăng, lãi suất cho vay cũng sẽ ghi nhận áp lực tăng tuy nhiên sẽ có độ trễ so với thời điểm tăng của lãi suất huy động và sẽ có sự phân hoá giữa mức tăng và thời điểm tăng giữa các ngành nghề. Theo đó, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) nhiều khả năng sẽ có điều chỉnh nhẹ trong thời gian tới.

 

Lãi suất huy động tăng mạnh đã bắt đầu tác động lên chi phí vốn của các ngân hàng, tuy nhiên, chi phí huy động sẽ vẫn duy trì thấp hơn mức trước dịch nhờ tỷ lệ CASA cao. Một số ngân hàng có khả năng tiếp cận nguồn vốn giá rẻ từ các TCTD quốc tế cũng sẽ có lợi thế trong việc duy trì chi phí vốn thấp.

Số liệu thống kê từ VCBS cho biết, toàn hệ thống ngân hàng ghi nhận tỷ lệ CASA cao ở mức 22,1% vào quý I/2022 khi các ngân hàng thương mại Nhà nước tham gia vào cuộc đua thu hút khách hàng cá nhân, tăng thị phần CASA thông qua miễn phí giao dịch và phát triển các sản phẩm số hóa.

“Trong các quý tới, tỷ lệ CASA có thể gặp áp lực giảm do các thị trường đầu tư tài sản kém thuận lợi và dòng tiền nhàn rỗi rút ra tập trung đầu tư cho sản xuất kinh doanh”, VCBS dự báo.

VCBS cho biết, NIM ngắn hạn đạt đỉnh trong nửa đầu năm 2021 và bắt đầu suy giảm nhẹ do lãi suất cho vay tăng chậm hơn lãi suất huy động.

Dẫu vậy, VCBS cho biết, một số nhóm ngân hàng vẫn có thể duy trì được mức NIM cao, bao gồm: nhóm ngân hàng tư nhân có tập khách hàng cá nhân tăng nhanh tiếp tục nâng cao tỷ lệ CASA và cải thiện được chi phí vốn; nhóm 4 ngân hàng thương mại nhà nước duy trì NIM.

 

Viễn cảnh chung trong nửa cuối năm 2022 được VCBS dự báo là: “NIM có thể đi ngang hoặc điều chỉnh giảm nhẹ trong 2022 do lãi suất huy động chịu áp lực tăng và CASA tăng chậm lại”.

Các yếu tố hỗ trợ NIM trong thời gian tới là: dư nợ bán lẻ và hoạt động tài chính tiêu dùng tăng trưởng tốt; lãi dự thu phục hồi sau thời gian hỗ trợ; tỷ lệ cho vay so với huy động (LDR) và tỷ lệ cho vay trung dài hạn của ngành vẫn ở mức thấp.

“Chúng tôi duy trì dự báo tích cực đối với lợi nhuận trước thuế toàn ngành Ngân hàng trong năm 2022. Tuy nhiên,mức độ tích cực sẽ giảm dần trong nửa cuối năm 2022 và năm 2023, đặc biệt trong năm 2023 sẽ có sự phân hóa rõ rệt về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng”, VCBS dự báo và đánh giá: “triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành Ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường, với mức định giá xấp xỉ mức trung bình 5 năm”.

Video liên quan

Chủ đề