Ợ buồn nôn đau bụng nhức đầu là bệnh gì

(CAO) Đau bụng, buồn nôn có thể là dấu hiệu cảnh báo những bệnh đơn giản như rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, cũng có thể là dấu hiệu bệnh nghiêm trọng như sỏi thận, viêm loét dạ dày, hội chứng ruột kích thích, viêm ruột,...

Người phụ nữ 39 tuổi, ngụ TP.HCM đến bệnh viện khám trong tình trạng sức khỏe và tinh thần suy kiệt, người ốm yếu, thiếu máu nặng, không thể tự đi một mình (phải có người thân dìu).

Bệnh nhân cho biết, từ đầu năm 2014, chị bắt đầu xuất hiện những cơn đau bụng ở vùng rốn và buồn nôn vào buổi chiều, nôn hết thức ăn rồi đến dịch mật. Những cơn đau khiến chị ăn không còn ngon miệng, chị sợ các bữa ăn và cả những món ăn mà trước đây chị rất thích.

Cứ nghĩ mình bị viêm loét dạ dày hay bị bị đau bụng cơ năng do yếu tố thần kinh… Chị đi khám nhiều nơi nhưng bệnh chỉ khỏi vài ngày rồi đâu lại vào đấy. Hơn 5 năm ròng rã, tình trạng bệnh vẫn tiến triển và ngày càng tồi tệ. Từ 56kg, trong vòng 5 năm, chị sút còn 44kg, yếu đến nỗi chị không thể tự đi bộ quá 5 mét.

Tại bệnh viện, sau khi thăm khám lâm sàng, lắng nghe triệu chứng cũng như tiền sử, bệnh cảnh của bệnh nhân, TS.BS. Lê Thị Tuyết Phượng, Trưởng khoa Nội tiêu hóa - Bệnh viện Nhân dân 115 TP.HCM, chuyên gia tại Bệnh viện Gia An 115 đã chỉ định bệnh nhân đi thực hiện nội soi ruột, chụp X-quang, chụp cắt lớp vi tính và siêu âm ổ bụng để tầm soát.

Sau khi quan sát kỹ các kết quả cận lâm sàng, BS. Phượng nhận thấy bệnh nhân bị viêm ruột xuất huyết, có xơ hóa và hẹp hồi tràng. Đây là căn bệnh hiếm gặp và rất khó phát hiện. Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật cắt đoạn hồi tràng xơ hóa và hẹp. Tuy nhiên, do thể trạng quá yếu, thiếu máu nặng nên bệnh nhân đã được chăm sóc tích cực để nâng cao thể trạng trước khi phẫu thuật.

Sau khi được nâng thể trạng, bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật. Sau phẫu thuật, tình trạng bệnh nhân ổn định, không còn đau bụng, buồn nôn hay chóng mặt. Bệnh nhân được xuất viện.

Ợ buồn nôn đau bụng nhức đầu là bệnh gì

Bệnh nhân được tư vấn chăm sóc sức khỏe khi xuất viện

TS.BS. Lê Thị Tuyết Phượng, chuyên khoa Nội tiêu hóa chia sẻ, các trường hợp đau bụng, buồn nôn thường được nghi ngờ do các nguyên nhân phổ biến như viêm loét dạ dày, hội chứng ruột kích thích…

Tuy nhiên, với trường hợp bệnh nhân này, bệnh cảnh kéo dài 5 năm, tiền sử bệnh khá phức tạp như đã từng mổ tử cung 3 lần (mổ u xơ tử cung, mổ do vỡ tử cung khi mang song thai và mổ bắt con), hơn nữa còn bị thiếu máu, tình trạng đau bụng lại bất thường (sáng hoàn toàn bình thường, đau dữ dội các buổi chiều) nên phải nghĩ tới nguyên nhân khác. Và kết quả cận lâm sàng đã khẳng định đúng như vậy, bệnh nhân bị viêm ruột, hồi tràng hẹp và xơ hóa.

BS. Tuyết Phượng chia sẻ thêm, tuy bệnh này không trực tiếp đe dọa tính mạng bệnh nhân nhưng nếu không được phát hiện và điều trị hiệu quả, để kéo dài thì sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sống của người bệnh và dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm khác.

Ợ buồn nôn đau bụng nhức đầu là bệnh gì

Đau bụng, buồn nôn: Triệu chứng của nhiều bệnh lý nguy hiểm. Ảnh minh họa

Các bác sĩ khuyến cáo, khi thấy hiện tượng đau bụng, buồn nôn người bệnh không nên chủ quan, cũng không nên tự ý mua thuốc điều trị khi chưa có sự thăm khám của bác sĩ. Việc điều trị không đúng bệnh, sai nguyên nhân sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.

Người bệnh nên đến các cơ sở y tế để các bác sĩ khám tìm nguyên nhân. Sau khi thăm khám, dựa vào từng nguyên nhân, bệnh lý cụ thể và tình trạng sức khỏe của người bệnh, các bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị phù hợp.

Buồn nôn, cảm giác khó chịu cần phải nôn, biểu hiện nhận thức về kích thích hướng tâm (bao gồm tăng trương lực phó giao cảm) vào trung tâm nôn ở hành tủy. Nôn là quá trình tống mạnh các thành phần có trong dạ dày do co thắt không tự chủ của cơ thành bụng khi cơ thắt tâm vị và cơ thắt thực quản dưới giãn ra.

Nếu một bệnh nhân bất tỉnh hoặc chỉ có ý thức một phần, chất nôn có thể bị hít vào (bị hít phải). Axit trong chất nôn có thể gây kích ứng nặng ở phổi, gây viêm phổi do hít phải.

Nôn mạn tính có thể dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng, sụt cân và các bất thường về chuyển hóa.

Buồn nôn và nôn xảy ra khi đáp ứng với các điều kiện ảnh hưởng đến trung tâm nôn. Nguyên nhân có thể xuất phát từ đường tiêu hoá (GI) hoặc hệ thần kinh trung ương (CNS) hoặc có thể là kết quả của một số tình trạng toàn thân ( xem Bảng: ).

Các nguyên nhân phổ biến nhất gây buồn nôn và nôn là các nguyên nhân sau:

  • Thuốc
  • Chất độc

Hội chứng nôn có chu kỳ (CVS) là tình trạng bất thường không phổ biến, đặc trưng bởi các cơn nôn dữ dội, riêng rẽ, hoặc đôi khi chỉ có buồn nôn xảy ra ở các khoảng thời gian khác nhau; với tình trạng sức khoẻ bình thường giữa các giai đoạn đó và không có các bất thường về cấu trúc. Hội chứng này phổ biến nhất ở trẻ em (tuổi trung bình khi khởi phát là 5 tuổi) và thường có xu hướng giảm ở tuổi trưởng thành. Nôn theo chu kỳ ở người lớn có thể xảy ra khi sử dụng cần sa lâu dài (cần sa) (hội chứng nôn nhiều kéo dài do cần sa); nôn có thể thuyên giảm bằng cách tắm nước nóng và hết sau khi ngừng sử dụng cần sa.

Ợ buồn nôn đau bụng nhức đầu là bệnh gì

Tiền sử của bệnh hiện tại cần phải đưa ra tần suất và thời gian nôn; mối quan hệ của nó với các chất gây khởi phát có khả năng xảy ra như là nuốt phải thuốc hoặc chất độc, chấn thương đầu và sự di chuyển (ví dụ: xe hơi, máy bay, thuyền, các phương tiện giải trí); và chất nôn có chứa mật không (đắng, vàng xanh) hoặc chứa máu không (chất màu đỏ hoặc màu "cà phê"). Các triệu chứng quan trọng kèm theo bao gồm có đau bụng và tiêu chảy; lần cuối cùng đại tiện và đánh hơi và có đau đầu, chóng mặt, hoặc cả hai.

Xem xét các hệ thống tìm kiếm các tình trạng rối loạn có triệu chứng như là vô kinh và căng vú (mang thai), tiểu nhiều và khát nhiều (đái tháo đường) và đái máu và đau mạn sườn (sỏi thận).

Bệnh sử trong quá khứ cần phải xác định các nguyên nhân đã biết như là có thai, đái tháo đường, đau nửa đầu, bệnh gan hoặc bệnh thận, ung thư (bao gồm cả thời gian của bất cứ lần hóa trị hoặc xạ trị nào) và phẫu thuật ổ bụng trước đây (có thể gây tắc ruột do dính). Tất cả các loại thuốc và các chất đã dùng gần đây cần phải được xác định chắc chắn; một số chất nhất định có thể không biểu hiện độc tính cho đến vài ngày sau khi dùng (ví dụ: acetaminophen, một số loại nấm).

Tiền sử gia đình bị nôn tái phát cần phải được ghi nhận.

Các dấu hiệu sinh tồn cần đặc biệt lưu ý là có sốt và các dấu hiệu giảm thể tích máu (ví dụ: nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, hoặc cả hai).

Khám toàn thân cần phải tìm xem có vàng da và ban không.

Khi khám bụng, bác sĩ lâm sàng cần phải tìm dấu hiện căng giãn bụng, các vết sẹo mổ; nghe xem có âm thanh và chất lượng của nhu động ruột (ví dụ: bình thường, cao); gõ xem có bụng chướng không; và sờ để xác định chỗ nhạy cảm đau, các dấu hiệu phúc mạc (ví dụ: phản ứng thành bụng, co cứng thành bụng, phản ứng dội (cảm ứng phúc mạc) và bất kỳ khối nào, cơ quan tăng kích thước, hoặc thoát vị không. Khám trực tràng và khám tiểu khung (đối với phụ nữ) xác định vị trí đau khi sờ vào, các khối, và có máu hay không là rất cần thiết.

Khám thần kinh đặc biệt cần phải lưu ý trạng thái tâm thần, rung giật nhãn cầu, viêm màng não (ví dụ: gáy cứng, dấu hiệu Kernig hoặc dấu hiệu Brudzinski) và các dấu hiệu thị giác trong tăng áp lực nội sọ (ví dụ: phù gai thị, mất nhịp đập tĩnh mạch, liệt dây thần kinh sọ não số 3) hoặc xuất huyết dưới nhện (xuất huyết võng mạc).

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Dấu hiệu giảm thể tích máu
  • Đau đầu, gáy cứng, hoặc thay đổi trạng thái tâm thần
  • Dấu hiệu phúc mạc
  • Bụng trướng, gõ vang như trống

Nhiều dấu hiệu gợi ý về một nguyên nhân hoặc một nhóm nguyên nhân (xem bảng ).

Nôn xảy ra khi nghĩ đến thức ăn hoặc không liên quan đến ăn uống theo thời gian gợi ý nguyên nhân do tâm lý, cũng như tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị buồn nôn và nôn cơ năng. Bệnh nhân cần phải được hỏi về mối liên quan giữa nôn và các biến cố căng thẳng vì họ có thể không nhận ra hoặc thậm chí chấp nhận cảm giác đau buồn vào những thời điểm đó.

Tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên làm xét nghiệm nước tiểu thử thai. Bệnh nhân bị nôn dữ dội, nôn kéo dài hơn 1 ngày, hoặc có dấu hiệu mất nước khi khám cần phải được làm các xét nghiệm khác (ví dụ: điện giải, urea nitrogen máu, creatinine, glucose, phân tích nước tiểu, đôi khi là các xét nghiệm về gan). Bệnh nhân có dấu hiệu báo động đỏ nên được xét nghiệm phù hợp với các triệu chứng (xem bảng ).

Đánh giá nôn mạn tính thường bao gồm các xét nghiệm được liệt kê ở trên cộng với nội soi đường tiêu hóa trên, X-quang ruột non và các kiểm tra để đánh giá quá trình làm trống dạ dày và nhu động của hang vị - tá tràng.

Điều trị tình trạng cụ thể, bao gồm bù nước. Ngay cả khi không bị mất nước đáng kể, điều trị bằng truyền dịch đường tĩnh mạch (1 L dung dịch muối sinh lý 0,9%, hoặc 20 mL/kg ở trẻ em) thường dẫn đến giảm các triệu chứng. Ở người lớn, nhiều thuốc chống nôn có hiệu quả ( xem Bảng: ). Lựa chọn thuốc thay đổi theo nguyên nhân và mức độ nặng của các triệu chứng. Thường là dùng theo các hướng dẫn sau:

  • Say tàu xe: Thuốc kháng histamine, miếng dán scopolamine hoặc cả hai
  • Các triệu chứng nhẹ đến trung bình: Prochlorperazine, promethazine hoặc metoclopramide
  • Nôn dữ dội hoặc khó chữa và nôn do hóa trị liệu: Thuốc đối kháng 5-HT3, thuốc đối kháng thụ thể neurokinin-1 (ví dụ: aprepitant)

Chỉ nên dùng các thuốc theo đường tĩnh mạch hoặc dưới lưới trên những bệnh nhân nôn liên tục.

Đối với nôn do tâm lý, trấn an cho thấy nhận thức về cảm giác khó chịu của bệnh nhân và mong muốn làm điều gì đó để làm giảm các triệu chứng, bất kể nguyên nhân nào. Cần phải tránh những bình luận như "không có vấn đề gì cả" hoặc "vấn đề chỉ là cảm xúc thôi". Có thể thử điều trị triệu chứng trong thời gian ngắn bằng thuốc chống nôn. Nếu xử trí trong thời gian dài là cần thiết, điều trị hỗ trợ, đi khám thường xuyên có thể giúp giải quyết vấn đề bên trong.

Ợ buồn nôn đau bụng nhức đầu là bệnh gì

Nhiều đợt buồn nôn và nôn có nguyên nhân rõ ràng và khám không phát hiện bất thường và chỉ cần điều trị triệu chứng.