Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 8 năm 2021

Đại tá, PGS, TS Hà Trọng Thà

Phó Trưởng Phòng Chính trị, T04

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt về chất của cách mạng Việt Nam. Đó là một trong những trang vàng chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Thời gian đã lùi xa, đến nay đã là 76 năm (19/8/1945-19/8/2021), nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng. Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945-19/8/2021) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2021), Trang Thông tin điện tử trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá, PGS. TS Hà Trọng Thà, P. Trưởng phòng Chính trị cùng bạn đọc.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là trang sử vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chống quân xâm lược. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc Việt Nam và nhân loại.

1. Ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”, chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta” [5]. Tiếp tục nhấn mạnh ý nghĩa to lớn đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười, ngày 6/11/1957, Người tự hào khẳng định: “Năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước và xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng tôi” [6]. Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám mở kỷ nguyên độc lập với sự kiện lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản đồ thế giới. Cũng từ đó, dân tộc ta đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền.

Hai là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một mặt, đã góp phần đánh bại tàn dư của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới. Về vấn đề này, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, ngày 19/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân” [4]. Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, kết quả mà Cách mạng Tháng Tám mang lại thể hiện sự khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và đế quốc), như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập” [4].

Ba là, Cách mạng Tháng Tám khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, ngày 03/02/1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm (1930 - 1945), Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xôviết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Tháng 8/1945, với nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ thuận lợi nhất, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đưa Đảng ta từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Trong bài viết Cách mạng tháng Mười Nga mở đường giải phóng cho các dân tộc trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực tiễn ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng nhờ có sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội” [7].

Bốn là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do hướng tới chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [2].

Năm là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính cách mạng, khoa học của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra” [6]. Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám còn là minh chứng hùng hồn về sự thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh khi vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh rằng, cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở “chính quốc”, nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở “chính quốc”. Trái lại, nó có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp công nhân “chính quốc” lên nắm chính quyền.

Sáu là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Cách mạng Tháng Tám là tấm gương, là nguồn cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, nhất là các nước láng giềng noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập” [5]. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cùng với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ trên thế giới và quân đồng minh đánh đổ chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Do đó, chiến thắng của Cách mạng Tháng Tám cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia: “Chúng ta chỉ có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất đối với nhân dân Việt Nam anh hùng... Với sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ vang nhất trên thế giới...” [8]. Khái quát đầy đủ ý nghĩa thắng lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” [5].

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Mít tinh Tổng Khởi nghĩa ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, ngày 19/8/1945. Ảnh: Tư liệu - TTXVN

2. Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước để chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phát xít và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Hai là, thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông. Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” [3], vì thế “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [3]. Thực tiễn đã chứng minh chân lý đó. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả cuộc đấu tranh của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng cách mạng, trong đó động lực cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Liên minh công - nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì liên minh công - nông đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt khác, trên cơ sở nhắm đúng mục tiêu chiến lược hàng đầu của cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

Ba là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết” [1], Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng, biết cách sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh phù hợp với từng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử, tập dượt đấu tranh từ thấp đến cao. Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó, vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Khi thời cơ đến, Đảng đã biết sử dụng tối đa sức mạnh cách mạng theo nguyên tắc “tập trung, thống nhất, kịp thời” đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

Bốn là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám được một đảng tiên phong thật sự cách mạng lãnh đạo. Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, ngay từ đầu Đảng đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó với nhân dân. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Đảng biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Với những yếu tố như trên, nên tuy chỉ mới được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh và mặc dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và mang tầm vóc thời đại. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên.

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn trong quá trình phát triển. Bên cạnh những thuận lợi, thì đất nước ta cũng đang gặp phải những khó khăn, trong đó có sự xuất hiện của dịch bệnh COVID - 19, đặc biệt là đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ tư vẫn còn đang diễn biến hết sức phức tạp. Sự tác động của dịch bệnh đã làm đất nước ta phải chịu thiệt hại lớn. “Từ thành thị tới nông thôn, những con đường vắng người qua lại, những khu chợ sầm uất, sân bay, bến cảng, sân trường, nhà máy, xí nghiệp... náo nhiệt giờ lặng lẽ; trong khi đó bệnh viện, khu điều trị ở một số nơi có dịch lại trở nên đông đúc hơn bao giờ hết. Những chung cư, sân vận động, nhà thi đấu, ký túc xá, doanh trại quân đội bất đắc dĩ trở thành bệnh viện dã chiến, thành khu cách ly. Bao nhiêu cuộc hội ngộ, đoàn tụ vui buồn trở thành dang dở... Sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng tiêu cực, thu nhập, tích lũy của người dân giảm sút... Đám mây đen COVID - 19 đã phủ nghịch cảnh lên cuộc sống của chúng ta” [10]. Bên cạnh đó, thế giới đang bị khủng hoảng lớn về kinh tế và nhiều mặt khác, tình hình an ninh khu vực và thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo… Trước tình hình ấy, những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc đối phó với dịch bệnh. Với phương châm “chống dịch như chống giặc”, chúng ta tin tưởng việc phát huy những bài học kinh nghiệm đã có được từ Cách mạng Tháng Tám sẽ góp phần giúp Việt Nam “đẩy lùi cho được đại dịch COVID - 19, “sớm đưa nước ta trở về “trạng thái bình thường mới”” [9] mà nhân dân cả nước đang mong đợi như đã từng mong đợi thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắtsau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Ảnh: TTXVN


Tài liệu tham khảo:

1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, tr.25.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2.

4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5

5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11

7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13.

8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14.

9. Phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại lễ công bố và trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026.

10. Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại lễ công bố và trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026.


Tin khác

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Vận dụng Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị trong công tác giáo dục đào tạo tại Trường Đại học An ninh nhân dân(18/10/2020)

Một số vấn đề đặt ra cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của lực lượng Công an nhân dân theo tinh thần của Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về các chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0

  • Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thư viện ảnh
  • Thư viện Ảnh
Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Những hình ảnh Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)

Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1984-1989

Giai đoạn 1984-1989: Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1976-1984

Giai đoạn 1976-1984: Trường Bổ túc sỹ quan Công an nhân dân

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1963-1976

Giai đoạn 1963-1976: Trường An ninh Trung ương cục miền Nam

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Trong sạch đội ngũ để giữ trọn lời thề

href="http://dhannd.edu.vn/thu-vien-anh-883">
Thư viện Video
  • Thư viện Video
Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
videocam

Trường Đại học An ninh nhân dân - Nơi ươm mầm sĩ quan an ninh tương lai

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
videocam

Phim Tư liệu: 75 năm - Một bản hùng ca

Phim Tư liệu “75 năm - một bản hùng ca” góp phần ôn lại cũng như phát huy truyền thống anh hùng 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng An ninh nhân dân.

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
videocam

Học viên Trường Đại học An ninh nhân dân đảm bảo trực tết và phòng chống dịch Covid-19

Học viên các Trường CAND tham gia lực lượng ứng trực đảm bảo trực tết và phòng chống Covid-19

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
videocam

Hành trình gian nan đưa thi thể Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉ

Hy sinh trong lúc ứng cứu người dân bị nước lũ cuốn trôi từ đêm ngày 17/10, tại xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, đến tối ngày 20/10 các đồng đội mới có thể đưa đồng chí Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉ.

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
videocam

Xây dựng Đảng bộ Công an Trung ương trong sạch, vững mạnh

Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, xây dựng đảng bộ thực sự trong sạch vững mạnh, là đảng bộ kiểu mẫu, tiêu biểu về phẩm chất, năng lực lãnh đạo các mặt công tác công an.

href="http://dhannd.edu.vn/thu-vien-video">

Đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám (Phần I)

Ngày đăng: 18/08/2015 - 15:08

Liền sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914­-1918), "khi đại bác đã chán ngấy thịt da vàng, da đen rồi", thì các cường quốc thắng trận họp ở cung điện Vécxây, lạnh lùng chia nhau lại địa cầu, giữ chắc và mở rộng thêm các hệ thống thuộc địa, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp, Anh. Họ lập nên một bức tường thành chủ nghĩa thực dân thế giới nhằm chống lại các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chắc chắn sẽ nổi lên. Lúc ấy, đa số các dân tộc trên địa cầu đều là thuộc địa hay nửa thuộc địa của năm, ba nước đế quốc thực dân. Mới đó Anh, Pháp, Hà Lan,... luôn mồm kêu gọi các dân tộc thuộc địa hãy đứng cạnh "mẫu quốc" văn minh để đánh bại "Đức tặc" dã man, hãy hy sinh tính mạng, tài sản để sau khi chiến thắng sẽ được hưởng dân chủ, tự trị...

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Ngày 19-8-1945, nhân dân giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội).

Nay thì Hội nghị Vécxây chấm dứt, mọi lời hứa của Pari, Luân Đôn, La Hay bị chôn vùi trong quên lãng, trong im lặng, nếu từng lúc không có những cuộc khởi nghĩa nổ ra nhắc nhở bọn chủ nô hiện đại, như khởi nghĩa ở núi Rif (Marốc), khởi nghĩa ở Java (Inđônêxia), ở Bắc Kỳ (Việt Nam) và những cuộc đấu tranh cực kỳ lớn như phong trào "bất hợp tác" ở Ấn Độ, phong trào quân giải phóng ở Trung Quốc.

Thế giới thuộc địa như một núi lửa đang sôi sục, những điều kiện của cách mạng ở thuộc địa đang hình thành trong hoàn cảnh thế giới đã có Liên bang Xôviết và Quốc tế thứ ba phất cao ngọn cờ "giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!".

Tiếp đó, nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945). Một lần nữa, các đế quốc lại cần xương thịt da vàng, da đen và cả da trắng để làm mồi đại bác. Nhưng lần này, các dân tộc bị nô dịch bị lừa gạt ở các châu, chủ yếu là châu Á, châu Phi không trông chờ "lượng cả" nữa. Họ thức tỉnh, họ vùng lên, tất cả đều nhất trí với Hồ Chí Minh là "Phải đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Phong trào giải phóng dân tộc trở thành cơn vũ bão ngay từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai chưa chấm dứt. Trong cơn vũ bão đó, mục đích chính trị của tất cả các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa đều giống nhau: độc lập, tự do. Nhưng các bước đường đi tới độc lập, tự do của mỗi dân tộc thì không nơi nào giống hẳn nơi nào; mỗi cuộc giải phóng dân tộc đều có đặc điểm riêng của mình.

Câu hỏi đặt ra là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam mang những đặc điểm gì khiến nó được nhiều nhà sử học xem là một "đột phá khẩu" vào bức tường thành chủ nghĩa thực dân thế giới? Nhiều người nhận định: các hệ thống chủ nghĩa thực dân thế giới sụp đổ hoàn toàn, chủ yếu bắt đầu từ cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 của Việt Nam thành công và của nhiều dân tộc thuộc địa ở Đông Nam Á.

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Ngày 28-8-1945, Đoàn Giải phóng quân ở Việt Bắc về duyệt binh ở Quảng trường Nhà hát Lớn.

Đặc điểm thứ nhất: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thành công triệt để.

Các nhà sử học Việt Nam dùng từ "cách mạng" để xác định tính chất của phong trào đấu tranh nhằm đánh đuổi quân Pháp, giành lại chủ quyền, đại khái bắt đầu từ đầu thế kỷ XX. Còn từ cuộc nổi dậy của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định đến cuộc khởi nghĩa Hương Sơn của Phan Đình Phùng, cuộc kháng chiên kéo dài của Hoàng Hoa Thám, đều chưa thuộc vào thời kỳ cách mạng. Có thể hiểu vì sao; vì trong giai đoạn lịch sử đó, các lãnh tụ kháng chiến và đồng bào nổi dậy đều chỉ nhằm mục đích đại nghĩa là tiêu diệt quân xâm lăng, "khôi phục nước Việt Nam y cựu".

Ra sức giữ cho được cái cũ quen thuộc, chưa một ai tính thay đổi gì mới trong chế độ xã hội đương tàn.

Phải đến đầu thế kỷ XX thì khái niệm "cách mạng" mới đến Việt Nam từ "tân thư", "tân báo" của Trung Quốc, Nhật Bản. Vào Việt Nam trước tiên là tư tưởng cách mạng tư sản dân chủ đã cũ ở phương Tây, nhưng còn mới cho phương Đông. Phong trào yêu nước Việt Nam cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất nói chung là ở trong khuôn tư tưởng ấy tuy những tư tưởng quân chủ, thần bí ở dạng này hay dạng khác còn sống khá mạnh, như các cuộc nổi dậy của Nguyễn Hữu Trí ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn những năm 1911 và 1916 được gọi là nổi dậy Thiên địa hội. Mãi đến gần giữa những năm 20, phong trào yêu nước ở Việt Nam mới hoạt động với một chất lượng mới với phương hướng cách mạng, kết hợp nhiệm vụ dân Lộc với nhiệm vụ loại trừ mọi tàn tích phong kiến, đem lại độc lập và dân chủ cho đất nước.

Bắt đầu xuất hiện những tổ chức đưa đến Việt Nam Thanh niên Cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Không còn có đảng nào chủ trương "độc lập và quân chủ", trừ ra một cánh đạo Cao Đài thân Nhật muôn tôn phù Kỳ ngoại hầu Cường Để, mà rốt cuộc thì đến cuối chiến tranh, cả Kỷ ngoại hầu và phe quân chủ đều bị Nhật bỏ rơi. Và, trong phong trào dân tộc thuộc địa đấu tranh giải phóng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong sự sụp đổ toàn bộ các hệ thống đế quốc thực dân, có thể thấy kết quả ở mỗi nước mới giành được độc lập có nhiều mức độ khác nhau tuỳ theo hình thức và sức mạnh đấu tranh của mỗi dân tộc. Có dân tộc giành độc lập bằng khởi nghĩa cách mạng, có dân tộc giành tự chủ vừa bằng khởi nghĩa, vừa bằng thương thuyết, hay chỉ có nhượng ước thôi trong một bối cảnh chính trị được gọi là "phi thực dân hoá". Có dân tộc giành độc lập mà giữ quân chủ làm hình thức của chính quyền. Cũng có dân tộc giành được độc lập với hình thức dân chủ tư sản, gần như kiểu phương Tây. Lại có dân tộc mang cái vỏ "độc lập" do đế quốc ban cho mà thực chất là chính quyền ở trong tay của những công ty thực dân và những nhân vật được đế quốc thuần dưỡng từ lâu.

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tương đối muộn (1930), chủ trương làm cách mạng có tính chất dân chủ tư sản lấy hai nhiệm vụ phản đế và phản phong làm cơ bản với giai cấp công nhân và giai cấp nông dân làm động lực chính của cách mạng. Giai cấp công nhân lãnh đạo toàn dân nổi lên một ngày nào đó giành độc lập dân tộc, lập chính phủ công nông. Nhưng khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng Cộng sản thấy tình thế mới cho phép và đòi hỏi một chuyển hướng chiến lược nhằm tạo ra đầy đủ khả năng đoàn kết tất cả dân tộc không chừa một giai cấp nào, dù là địa chủ hay tư sản, đoàn kết xung quanh công nông liên minh đã bắt đầu được xây dựng có hiệu quả ngay từ giai đoạn lịch sử 1930 - 1931 và được thử thách suốt mười mấy năm.

Trong đường lối chuyển hướng chiến lược đó, Đảng rút bớt khẩu hiệu cách mạng phản phong; cách mạng Việt Nam từ nay là cách mạng giải phóng dân tộc, chủ yếu nhằm đạt mục đích độc lập, tự do, lập chính quyền dân chủ cộng hoà trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân trong đấu tranh chính trị và vũ trang chống Pháp, chống Nhật.

Hồ Chí Minh kêu gọi:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.

Thành công, thành công, đại thành công.

Nhìn lại Cách mạng Tháng Tám 1945, chúng ta thấy trong hàng ngũ cách mạng chẳng những có công nhân, nông dân mà còn có đại địa chủ, nhiều quan lớn của triều đình, đương chức hoặc đã về hưu; đáng chú ý là sự có mặt của nhiều vị tiêu biểu cho các tôn giáo. Các dân tộc miền núi có mặt ngay từ những ngày khởi nghĩa tại Hà Nội, Sài Gòn. Sức mạnh của Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh của toàn dân Việt Nam có tổ chức, có lãnh đạo. Chính vì vậy mà Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng thành công triệt để nhất trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong thực tế lịch sử, Cách mạng Tháng Tám hoàn thành cả hai nhiệm vụ lớn của cách mạng dân chủ tư sản, cách mạng phản đế và cách mạng phản phong. Có điều là triều đình Huế sụp đổ rồi, nhưng chưa phải là tàn dư phong kiến trong các mặt xã hội khác đều tự nó tiêu tan. Công bằng xã hội ở nông thôn tuần tự được giải quyết như đã công bố trong Chương trình Việt Minh.

Thực ra, chế độ quân chủ không tự nó tan biến, cái "hay" của Pháp là thâu tóm tất cả quyền hành, còn cái dở lớn của nó là do thâu tóm hết quyền hành khiến cho đồng minh của đế quốc là phong kiến thấy quá rõ thân phận tôi đòi, cho nên mới có câu nói khôn ngoan duy nhất của Vĩnh Thụy: làm dân của một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ. Vĩnh Thuỵ nhớ hay quên lời nói ấy là một vấn đề khác.

Ở Việt Nam, chính khởi nghĩa toàn dân đã đưa lên một chính quyền của nhân dân, một chính quyền vì nhân dân; chính quyền ấy hoàn toàn độc lập với bất cứ một đế quốc thực dân nào. Hãy nghe Cụ Hồ trả lòi khi Pháp đòi đổi cái giá "tự do" bằng sự đồng ý cho Pháp tách Nam Bộ thành xứ "tự trị" riêng. Cụ Hồ nói: "Nam Bộ là thịt của thịt Việt Nam, là máu của máu Việt Nam; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi". Nếu cần, sẽ kháng chiến 9 năm, 30 năm chứ không bao giờ chịu khuất phục trước thực dân, đế quốc. Lời nói đanh thép đó chỉ có thể thốt ra từ một chính quyền hoàn toàn độc lập.

Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào trong vùng giải phóng đã bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tiền thân của chính quyền dân chủ. Mới thành công từ tháng 8 thì đến tháng giêng 1946, Chính phủ lâm thời đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong toàn quốc. Lần thứ nhất trong lịch sử, Quốc hội đầu tiên bằng đầu phiếu phổ thông bầu chính thức Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Những khó khăn cực kỳ lớn không ngăn cản được sự thực hiện dân chủ dưới các hình thức rộng rãi và có nguyên tắc nhất. Chính các chế độ dân chủ mới mẻ và mạnh dạn này đã góp phần đặc biệt quan trọng cho cuộc kháng chiến thành công. Điều cần nhấn mạnh là chính quyền dân chủ do Cách mạng Tháng Tám dựng lên là một chính quyền có đầy đủ tính chất dân chủ, song lại cao hơn, hay nói một cách khác, có tính chất nhân dân đậm, ít thấy ở các xứ khác, bởi vì cơ sở của chính quyền mối là các Ủy ban khởi nghĩa được thành lập đã tập hợp nhân dân, đưa nhân dân lên đưòng tranh đấu giành độc lập, tự do. Hoàn toàn không phải là một chính quyền dân chủ hình thức được áp đặt trên nhân dân. -

Rất đúng là một chính quyền từ nhân dân mà ra, đại diện trung thực nhất cho lòng dân cả nước. Nền dân chủ được dựng lên như vậy đang được gọi là một nền dân chủ nhân dân; dân chủ nhân dân hẳn chưa phải là dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng về bản chất đã vượt qua dân chủ tư sản thường thấy ở nhiều nước vừa thoát khỏi ách thực dân, ở đó thế lực của bọn phong kiến thân đế quốc còn rất lớn. Còn ở Việt Nam, cách mạng thành công triệt để sinh ra chính quyển dân chủ nhân dân; chính quyền dân chủ nhân dân mở ra nhiều khả năng chính trị mới, trong đó trước hết là khả năng đương đầu lâu dài và thắng lợi chông đế quốc thực dân đang thực hiện kế hoạch xâm lăng Việt Nam một lần nữa.

Đặc điểm tính chất kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành công. Ảnh tư liệu.

Đặc điểm thứ hai: Từ một quá trình chuẩn bị lâu dài, liên tục, gian nan tột bậc, Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công nhanh, gọn, phi thường trên toàn quốc Việt Nam.

Trước kết, tôi xin phép nói rõ quan niệm của mình về khoảng thời gian "Lịch sử Cách mạng Tháng Tám" so với thời gian "lịch sử cách mạng Việt Nam". Cách mạng Tháng Tám là một giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Nếu phải viết về lịch sử cách mạng Việt Nam thì tôi sẽ bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, từ khi xuất hiện ngôi sao Nguyễn Ái Quốc trên bầu trời, nghĩa là từ khi dân tộc Việt Nam bắt đầu có đường lối cách mạng.

Còn lịch sử Cách mạng Tháng Tám thì bắt đầu từ cuộc Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào thuộc Khu giải phóng Việt Bắc cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Thủ đô Hà Nội. Thời gian lịch sử Cách mạng Tháng Tám là ba, bốn tuần còn thòi gian lịch sử cách mạng Việt Nam dài hơn rất nhiều. Nói rõ hơn, thời gian lịch sử Cách mạng Tháng Tám chủ yếu là thời gian tổng khởi nghĩa.

Ngày 13-8, Tổng bộ Việt Minh, Thường vụ Trung ương Đảng được tin Nhật đầu hàng. Mười một giờ đêm hôm ấy, từ Tân Trào phát ra Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa: "... đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù".

Rạng ngày 14, Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu:

"Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo Quân giải phóng, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân"1.

Làm một cuộc tổng khởi nghĩa trên cả một nước gồm hàng chục vạn, hàng trăm vạn nhân dân, khác xa với phát lệnh tổng tiến công cho hàng chục, hàng trăm đơn vị quân đội sẵn sàng chiến đấu. Ở quân đội, tổ chức đã xong trước khi chiến đấu. Ở nhân dân, mọi việc đều còn phải hoàn thành khi nhận được lệnh khởi nghĩa. Bắc Nam xa cách hàng ngàn kilômét, điện đài thiếu hoặc không có, tất cả cầu phà trên đường thiên lý đều bị máy bay Mỹ phá. Ngay cả liên lạc giữa Tân Trào và Hà Nội cũng cực kỳ khó khán, vì lúc ấy đê Vĩnh Yên đã vỡ, giữa sông Hồng và Tam Đảo là một vùng lũ lụt mênh mông.

Hãy tưởng tượng tâm trạng lo âu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phát lời kêu gọi "toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" nếu Hà Nội, Huế, Sài Gòn không kịp hưởng ứng trước khi Đồng minh đưa quân vào, tình thế chính trị sẽ ra sao? Tình thế lịch sử lúc này đặt ra trước mọi người một cuộc "chạy đua" nước rút giữa cách mạng Việt Nam quyết tâm giành độc lập, tự do với quân Đồng minh nhập Việt, quân Tưởng ở miền Bắc, quân Anh ở miền Nam.

Tưởng thì chưa bao giờ có chút cảm tình nào với Việt Nam, còn Anh thì cấu kết với Pháp. Quân Đồng minh thì hoặc ở sát biên giới ta, bước một bước đã tới như quân Tưởng, hoặc như quân Anh có thừa máy bay, tàu chiến để nhanh chóng vào Sài Gòn. Họ có thể có ít nhiều mâu thuẫn với nhau, nhưng thống nhất với nhau ở chỗ ngăn cản Việt Minh giành chính quyền.

Ai thắng trong cuộc chạy đua? Làm sao có thể tưởng tượng người "chân đất" thắng? Phải thắng, thắng nhanh thì mới có độc lập, tự do. Nếu ta tới trễ, quân họ đông, vũ khí họ tốt, nếu họ làm chủ Hà Nội, Huế, Sài Gòn trước ta chỉ một tuần, một ngày, vài giờ thôi thì làm gì còn khởi nghĩa cách mạng nữa, làm gì có Việt Nam dân chủ cộng hoà? Năm mươi năm sau 1945, nhìn lại cuộc chạy đua nửa thế kỷ trước, càng thấy cuộc đấu tranh với thời gian là quyết liệt chừng nào và dân tộc Việt Nam đã giành chiến thắng một cách thần tốc, oanh liệt như thế nào?

Đúng giữa tháng tám, pháo lệnh tổng khởi nghĩa đã nổ. Việt Nam Giải phóng quân xuất phát đánh quân Nhật ở hai cửa ngõ đông, tây của Tân Trào là Thái Nguyên và Tuyên Quang. Chiến cuộc đang tiếp diễn thì ngày 19, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Hà Nội thành công gọn. Đó là tiếng súng lệnh cho tất cả các đơn vị trên toàn chiến trường sẵn sàng tiếp ứng. Ngày 23, chỉ bốn ngày sau Hà Nội, Huế khởi nghĩa thắng lợi. Nhân dân Sài Gòn, tới phiên mình, hoàn thành khởi nghĩa đêm 24, rạng ngày 25.

Chưa đầy một tuần lễ, tổng khởi nghĩa thành công trên một đất nước dài hơn 2 ngàn kilômét.

Tất cả đồng bào các tỉnh, huyện, xã nối tiếp nhau, từ Bắc chí Nam, từ miền biển đến miền núi đều nhất tề đứng dậy và đều thành công trọn vẹn.

Có thể đoán được tâm trạng của tướng Trương Phát Khuê ở Hoa Nam và Grâyxi ở Ấn Độ đang gấp rút lo việc điều quân "nhập Việt", khi họ biết tin khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhất là ngày 2-9, khi họ biết tin ở Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn độc lập:

"... Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam...

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chông ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chông phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyển tự do, độc lập ấy"2.

Từ nay, nước ta tự trình diện trước thế giới như một nước độc lập. Các nước Đồng minh trước và trong khi đến Hà Nội, Sài Gòn, đã tận mắt trông thấy một nước độc lập, có chủ quyển, có chính phủ hợp pháp được toàn dân tín nhiệm.

Nói cho đúng, trong cuộc "chạy đua", nếu quân Tưởng và quân Anh đã có mặt ở Hà Nội, ở Sài Gòn trước thì họ đã làm hết sức để khởi nghĩa không nổ ra, hoặc nếu có nổ ra thì cũng không thành công. Nhưng lúc đó, mối chỉ có vài nhóm tiền tiêu của họ được chứng kiến ngày 2-9, nhất là chứng kiến tinh thần của hàng triệu nhân dân kiên quyết bảo vệ độc lập, tự do mối giành lại được. Ít hôm sau, khi họ chính thức vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật thì Việt Nam đã có chủ, chủ là người Việt Nam hoạt động trong trật tự nghiêm túc. Nếu họ muốn quay lại chế độ cũ thì sẽ vấp phải sự kháng cự mãnh liệt nhất của một nhân dân đang hừng hực tinh thần chiến thắng.

Sự thật, những người lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã tính trước cuộc "chạy đua" này. Nếu không tính trước, không thắng nổi. Đã tính trước trường hợp "Hoa quân nhập Việt", ta phải làm gì? Đã tính trước trường hợp quân Mỹ đổ bộ ở Trung Kỳ sau khi chiếm lại Philíppin. Nhưng phải nói thật là khi ấy, không ai đoán trước Hồng quân Liên Xô vào giải phóng Đông Bắc Trung Quốc, và hai quả bom nguyên tử buộc quân Nhật đầu hàng sớm hơn ta dự tính. Do đó, cuộc "chạy đua" xảy ra căng thẳng hơn và cũng vì đó mà thành tích cuộc chạy đua càng vẻ vang hơn, ly kỳ hơn, mang ít nhiều tính huyền thoại. Nhưng đừng nên quên Việt Nam là xứ của huyền thoại Ông Gióng. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công nhanh gọn, xét cho cùng chính là vì nó đã được chuẩn bị lâu dài, liên tục và cực kỳ gian khổ.

Có người hoặc thiếu hiểu biết lịch sử, hoặc có dụng ý xuyên tạc lịch sử, cho rằng năm 1945, Việt Minh gặp một cái may hiếm có là Pháp thì bị Nhật lật đổ, rồi Nhật thì lại bị Đồng minh đánh bại, tình hình chính trị giống như một trái chín cây đang rơi, Việt Minh mau tay, lẹ chân chìa ra hứng trái đang rơi chớ chẳng có tài ba, công trạng gì. Trái lại, người hiểu biết một chút lịch sử cận hiện đại Việt Nam biết rằng ở xứ ta, trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, chỉ có hai đảng cách mạng, Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản chủ trương giành độc lập bằng khởi nghĩa vũ trang. Nhưng, Quốc dân Đảng chết sớm từ năm 1930 sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Sau Yên Bái, ngoài Đảng Cộng sản không còn đảng nào chủ trương cách mạng. Từ năm đầu thành lập (1930) Đảng Cộng sản đã ghi công khai chương trình hành động của mình là sẽ nhân thời cơ chiến tranh đế quốc làm cách mạng giải phóng dân tộc. Đến năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì Đảng xem đây là "thời cơ ngàn năm có một" để làm khởi nghĩa thành công và từ đó Đảng dốc sức vào công việc chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám là kết quả của cuộc chuẩn bị đó. Hơn ai hết, đế quốc Pháp biết rõ hoạt động của Đảng Cộng sản, cho nên trong mọi lúc và nhất là khi chiến tranh thế giới đã nổ ra, Pháp tập trung sức mạnh để tiêu diệt Đảng Cộng sản, mà không diệt nổi. Trái lại, Đảng lập lại được hệ thống sau mỗi lần bị phá và càng mạnh hơn. Đảng Cộng sản là đảng cách mạng duy nhất có cơ sở trên cả nước từ Bắc chí Nam; nói rằng mỗi xã, quận đều có thì không phải, nhưng tỉnh nào, thành nào, quận nào dầu hẻo lánh mấy cũng đều có mặt người chiến sĩ cộng sản và xung quanh họ là nhiều hội viên hội cứu quốc. Họ có thể ít lý luận, nhưng họ đều biết rõ rằng muốn giải phóng dân tộc và nhân dân thì có ngày phải làm khởi nghĩa vũ trang và ngày khởi nghĩa đó vào cuối cuộc chiến tranh thế giới khi thực dân quân phiệt kiệt sức. Nghĩa là họ, đảng viên và hội viên, đã được chuẩn bị tinh thần từ trước. Nhật thua trận không phải là việc bất ngờ với dân Việt Nam. Hiệu lệnh tổng khởi nghĩa từ Tân Trào, hay từ Hà Nội tất nhiên được hưởng ứng tức khắc và khắp nơi trên cả nước là vì vậy. Nhất hô bá ứng là kỳ lạ đối với những ai không ở trong phong trào, còn nhất hô bá thiên vạn ứng là chuyện dễ hiểu đổi với những ai biết rằng Đảng Cộng sản từ năm 1930 đã liên tục chuẩn bị không mỏi mệt cho ngày tháng tổng khởi nghĩa.

Vậy không khó khăn gì để giải thích hiện tượng "thần kỳ" là Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 nổ ra thần tốc trên toàn quốc trong vòng chỉ có mấy ngày.

Khởi nghĩa chỉ có mấy ngày mà hoàn thành thì phải chuẩn bị 15 năm mới được như vậy. Trong 15 năm liên tục, Đảng Cộng sản và Mặt trận (Phản đế, Dân chủ, Việt Minh) đã hy sinh hàng vạn chiến sĩ trong tù, trên máy chém, trong hàng ngàn cuộc bãi công, biểu tình, bãi thị, khởi nghĩa địa phương; nhưng kết quả lớn nhất của phong trào là, qua đấu tranh kinh tế, chính trị và tư tưởng, Đảng và Mặt trận đã gây được một điều rất cơ bản là làm cho quần chúng nhân dân không còn rời rạc, không còn thờ ơ với chính trị, mà trái lại hàng triệu người dân từ nay có ý thức về sức mạnh của mình, có ý thức về vai trò lịch sử của mình. Đó là việc rất lớn không phải đảng nào cũng biết đặt ra, không phải đảng nào cũng làm nổi. Đó là việc rất lâu dài, phải trải qua đấu tranh cách mạng gian khổ mới được. Nhờ vậy mà, khi thời cơ thuận lợi cho khởi nghĩa sắp đến, Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh đã tạo nên một lực lượng cách mạng cực kỳ hùng hậu mà trong thuật ngữ bấy giờ gọi là "đạo quân chính trị": cứ xem số nhân dân ngày 19-8 ở Hà Nội trước Nhà hát thành phố", ngày 23-8 ở Ngọ Môn, Huế, ngày 25-8 ở tất cả các đại lộ Sài Gòn, thì rõ. Riêng ở Sài Gòn và riêng trong công nhân lao động thành phố, "đạo quân chính trị" ấy gồm đến 200.000 ngưòi có tổ chức, hôm ấy (25-8) gần trăm vạn nông dân các tỉnh quanh Sài Gòn đúng hẹn vào thành phố với vũ khí trong tay, dù phần lớn là vũ khí thô sơ. Như thế cũng đủ thấy tầm quan trọng trong khởi nghĩa của "đạo quân chính trị" được dày công tạo thành từ những phong trào cách mạng trước tới đó.

Kết quả lớn của cuộc chuẩn bị lâu dài còn có một điều nữa mà ai viết lịch sử Cách mạng Tháng Tám cũng phải đề cao rất cao; đó là Khu giải phóng gồm Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà, sáu tỉnh, khi ấy gọi là "nước Việt Nam mới". Khu giải phóng Việt Bắc là kết quả của các cuộc đấu tranh vũ trang từ năm 1940, từ khởi nghĩa Bắc Sơn. Sáu tỉnh được giải phóng, là chỗ dựa mạnh của cách mạng, mà cách mạng khi ấy; thật ra không phải chỉ có Cao - Bắc- Lạng - Thái - Tuyên - Hà; còn nhiều vùng khác, nhỏ hơn, sau hơn mà có lẽ một ngày nào đó, nhà viết sử không thể không kể đến, như vùng du kích Ba Tơ ở Quảng Ngãi, như nhiều quận huyện ở Nam Kỳ lúc bấy giờ gọi là vùng "lưỡng quyền tương tranh" ở đó, về hình thức thì có bộ máy quan làng của Nhật nguỵ rệu rã, mà về thực tế thì quyền hành lại ở trong tay của toàn thể nhân dân, của Việt Minh đang phát triển hết sức mạnh.

Trong sự chuẩn bị lâu dài cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sau hết cần phải kể đến sự thành lập và phát triển của lực lượng vũ trang.

Có nhiều tài liệu lịch sử nói về công nông tự vệ đội ở thời kỳ phong trào cách mạng 1930 - 1931. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, bắt đầu từ đầu Chiến tranh thế giói thứ hai, các đơn vị vũ trang của nhân dân sớm được thành lập, đến cuối năm 1944 thì Quân giải phóng ra đòi. Quân giải phóng ra đời trong cuộc "đánh Pháp, đuổi Nhật". Pháp bị lật đổ, cuộc kháng Nhật của Quân giải phóng càng mạnh hơn. Bên cạnh Quân giải phóng ở Chiến khu Việt Bắc, các chiến khu ở Bắc và Trung đều có nhiều hay ít lực lượng vũ trang, các lực lượng vũ trang đó lớn mạnh dần theo sự phát triển của phong trào phá kho thóc của Pháp, Nhật để cứu đói, phong trào chống trưng thu lương thực, phong trào chống nhổ lúa, trồng đay... Cuộc tự vệ của nhân dân trong các phong trào này chuẩn bị tinh thần và vật chất cho khởi nghĩa vũ trang.

Quân giải phóng không trực tiếp tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, nhưng uy thế chính trị của Việt Minh, của Quân giải phóng trợ lực rất nhiều cho cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Nói tóm lại, Cách mạng Tháng Tám được chuẩn bị liên tục trong suốt 15 năm và kết quả lớn nhất của sự chuẩn bị đó là: Thứ nhất, xây dựng được một đảng tiên phong trường sinh bất tử có cơ sở và hệ thống trong cả nước. Thứ nhì là đem lại cho nhân dân cái ý thức về sức mạnh của mình, về vai trò lịch sử của mình; Thứ ba là tập hợp được một "đạo quân chính trị" rất lớn bao gồm hàng chục vạn, hàng triệu người sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền; Thứ tư là, trước ngày khởi nghĩa, Đảng và Mặt trận đã lập được một căn cứ địa rộng lớn - vùng giải phóng sáu tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà. Ở đây đã tổ chức được một đội Quân giải phóng được rèn luyện trong khói lửa của mấy năm "đánh Pháp, đuổi Nhật", đồng thời ở khắp nước cũng đã thành lập nhiều đội tự vệ vũ trang của quần chúng. Tháng Tám năm 1945, Việt Nam có lực lượng, chưa gọi là đầy đủ mà thật sự đã là hùng hậu rồi. Chuẩn bị lực lượng hùng hậu để khi thời cơ chín muồi, nghĩa là khi đối tượng của cách mạng đã đến lúc suy yếu nhất thì kịp thời nổi lên khởi nghĩa giành chính quyền. Giữa tháng tám là lúc thòi cơ chín muồi. Ta liền giáng cho địch một đòn nhanh như sét đánh. Ta đã hoàn toàn thành công trên cả nước.

GS. TRẦN VĂN GIÀU

(Bài trích trong sách "Cách mạng Tháng Tám trong tiến trình lịch sử dân tộc",

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005)

*****

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 558.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 3, tr. 557.

Bình luận
Gửi đi Làm lại

Ý nghĩa lịch sử cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành công (19/8/1945)

2021-08-18 17:12:00.0

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong 2 ngày 14 và 15 tháng 8 năm 1945 đã giải quyết vấn đề trọng đại: quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đại biểu các đảng bộ từ Bắc, Trung, Nam, từ các chiến khu và khu giải phóng về dự đông đủ. Hội nghị họp vào lúc phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh liền thành lập "ủy ban khởi nghĩa toàn quốc" để lãnh đạo khởi nghĩa trong cả nước. Trong tình hình hết sức khẩn trương, Đảng quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh Anh, Pháp vào nước ta.

23 giờ đêm 13 tháng 8, ủy ban khởi nghĩa ra "Quân lệnh số I" hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Mệnh lệnh khởi nghĩa và lời hiệu triệu cứu nước là tiếng gọi của non sông thức tỉnh con tim mỗi người Việt Nam yêu nước hãy nhất tề đứng dậy tranh đấu giành quyền Độc lập- Tự do.

Ngày 15, xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ thị cho Hà Nội khởi nghĩa. Hà Nội sống trong những ngày rạo rực chuẩn bị nổi dậy, các tầng lớp nhân dân nhất là thanh niên, hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, tuyên truyền cho Việt Minh, thành lập các đội tự vệ chiến đấu.

Chiều 17, cuộc biểu tình của Tổng hội công chức bị viến thành cuộc mít tinh lớn của Việt Minh. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên tầng hai Nhà hát Thành phố, đại biểu Việt Minh kêu gọi nhân dân đứng dậy giành chính quyền, lật đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim. Như một tia lửa nhen lên từ cánh đồng cỏ khô, ngọn lửa cách mạng bùng cháy, cả Hà Nội bừng bừng khí thế đấu tranh theo lời kêu gọi của Đảng.

Từ sáng ngày 19, hàng chục vạn nhân dân thành phố rầm rập tiến về Quảng trường Nhà hát lớn. Đúng 11 giờ trưa, cuộc mít tinh bắt đầu. Lời kêu gọi khởi nghĩa của Đảng được quần chúng đón mừng bằng những tiếng reo hò và những khẩu hiệu hô vang khắp quảng trường:

Thành lập chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam

Việt Nam hoàn toàn độc lập

Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.

Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại. Dòng người chia thành nhiều ngả, có các đội tự vệ chiến đấu dẫn đầu đi chiếm các công sở và chiếm lĩnh các vị trí xung yếu. Hai cánh cổng phủ khâm sai (nay là nhà khách chính phủ) đónh im ỉm. Đoàn biểu tình dừng lại, nhiều người vượt qua hàng rào sắt nhảy vào bên trong chiếm lấy trụ sở cơ quan đầu não của địch. Cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao, phần phật tung bay trước gió. ở trại Bảo an ninh, bọn Nhật cho xe tăng và quân lính chặn các ngã đường. Nhưng chúng không thể ngăn cản được làn sóng người đang cuồn cuộn tiến bước, sẵn sàng đạp bằng mọi trở ngại. Tuy còn hàng vạn tên lính với vũ khí đây đủ, quân Nhật cũng phải lùi bước.

Nhân dân Hà Nội đã hoàn toàn làm chủ thành phố của mình Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của toàn dân, thúc đẩy các nơi nổi dậy giành chính quyền. Cuốc khởi nghĩa ở Hà Nội có tác dụng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của cả nước.

Trong vòng 10 ngày từ 19 đến 28 tháng 8 hầu hết các tỉnh và thành phố đều nổi dậy khởi nghĩa. Bọn phát xít Nhật thua trận không dám hành động. Chế độ quân chủ bị lật đổ. Chính quyền trong cả nước hoàn toàn về tay nhân dân.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân, phát huy cao nhất truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công do sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt khôn khéo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo, có phương pháp và chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp, linh hoạt. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng nhìn rõ hơn tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới việc khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta và quốc tế sâu sắc, Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Tiến Long