Chỉ số d-dimer tăng cao khi mang thai

  • Giải mã các bài kiểm tra trực tuyến - nước tiểu, máu, nói chung và sinh hóa.
  • Vi khuẩn và tạp chất trong phân tích nước tiểu có ý nghĩa gì?
  • Làm thế nào để hiểu được phân tích của đứa trẻ?

  • Đặc điểm phân tích MRI
  • Xét nghiệm đặc biệt, ECG và siêu âm
  • Tỷ lệ mang thai và giá trị phương sai ..

Giải thích phân tích

Lấy một đứa trẻ buộc cơ thể của người phụ nữ tạo ra lượng tiểu cầu tăng lên. Đây là một quá trình tự nhiên, bởi vì cơ thể của người mẹ tương lai được chuẩn bị cho sự ra đời sắp tới và, kết quả là, mất máu lớn.

Tuy nhiên, sự sai lệch mạnh về tỷ lệ đông máu từ bình thường có thể gây tử vong thai nhi tử cung hoặc sinh non, vì vậy bệnh nhân mắc bệnh di truyền của máu cần phân tích d-dimer để xác định huyết khối có thể.

D-dimer là sản phẩm của sự phân hủy của cục máu đông - giá trị của nó càng cao thì xác suất đông máu và cục máu đông tăng lên trong các mạch máu của nhau thai càng cao.

D-dimer được hình thành như thế nào?

Chỉ số d-dimer tăng cao khi mang thai

Trong một sinh vật di truyền dễ bị cục máu đông, cục máu đông có thể hình thành không chỉ trên bề mặt vết thương mà còn ở bên trong các mạch máu. Các thành phần của thrombi bao gồm một fibrin protein, mà giữ các thành phần của cục máu đông với nhau. Để bình thường hóa tình hình và điều chỉnh việc cung cấp máu cho cơ thể, não kích hoạt các quá trình mà hành động của nó hướng đến sự phá hủy cục máu đông.

Fibrin bắt đầu tan rã và kết quả là sự hình thành D-dimers. Càng nhiều cục máu đông, sinh vật hoạt động càng cố gắng tiêu diệt chúng. Có nghĩa là, càng nhiều trong máu sẽ được tìm ra các sản phẩm của sự tan rã của cục máu đông nếu ở máu bệnh nhân cho nghiên cứu sẽ được thực hiện.

Giá trị bình thường của D-dimer trong thai kỳ, bảng

Thông thường, D-dimer trong thai kỳ, lên đến 13 tuần, vẫn nằm trong các giá trị tham chiếu là đặc trưng của những phụ nữ không có con. Tức là, chúng không vượt quá 0,50 μg FEU / mL.

Sự vắng mặt của các thay đổi được giải thích khá đơn giản: trong tam cá nguyệt đầu tiên nhau thai chưa được hình thành đầy đủ, và thực tế sự gia tăng giá trị của d-dimer trong thai kỳ thường liên quan đến rối loạn chức năng hoạt động của các mạch màng.

Sau đó, nhau thai chín và các giá trị tham chiếu của các sản phẩm phân hủy của các cục máu đông tăng lên, theo tiêu chuẩn, không quá 1,4 μg FEU / ml (đến 21 tuần mang thai). Trong trường hợp này, sự gia tăng không đáng kể trong các chỉ số của d-dimer là tự nhiên, vì cơ thể bắt đầu chuẩn bị hệ thống tuần hoàn cho sinh con.

Khi nhau thai, các chỉ số của sản phẩm của sự tan rã của cục máu đông tiếp tục tăng. Một biến thể của chỉ tiêu sẽ là nếu xét nghiệm máu ở tuần thứ 29 cho thấy các giá trị không vượt quá 1,7 μg FEU / ml và trước khi sinh - không vượt quá 3.1 μg FEU / ml.

Nếu bác sĩ theo dõi máu đông máu trong bệnh nhân trong suốt thời gian đó, thì các xét nghiệm có thể được kê toa thường xuyên hơn nhiều. Trong trường hợp này, nó sẽ có thể so sánh các chỉ tiêu của d-dimer theo bảng được thiết kế đặc biệt để đánh giá kết quả phân tích ở phụ nữ mang thai.

Mức độ d-dimer cao trong thai kỳ

Chỉ số d-dimer tăng cao khi mang thai

Nếu giá trị của sản phẩm phân hủy của cục máu đông tăng lên, điều này cho thấy sự hiện diện của huyết khối. Đặc biệt, một sự gia tăng mạnh trong chỉ số máu này nên được bảo vệ - điều này có nghĩa là bệnh nhân cần điều trị xuất huyết khẩn cấp.

Những bất lợi chính cho các bác sĩ là phân tích chỉ có thể xác định - trong thai kỳ, d-dimer được nâng lên, nhưng nó vẫn sẽ hoàn toàn không rõ ràng mạch máu đang tích cực tham gia vào hình thành huyết khối.

Dựa trên kết quả phân tích, bác sĩ sẽ đề xuất các xét nghiệm bổ sung cho người phụ nữ mang thai để hiểu lý do sai lệch so với chỉ tiêu sản phẩm phân hủy cục máu đông. Trong số đó có thể là:

  • Doppler quét luồng máu nhau thai - trong hầu hết các trường hợp, đường kính d cao trong thai kỳ là do rối loạn chức năng của các mạch máu nuôi nhau thai.
  • Đánh dấu ung thư - nếu tăng protein chậm và không đáng kể, và kết quả của nghiên cứu Doppler không tiết lộ bất kỳ vấn đề nào, bệnh nhân có thể được giới thiệu xét nghiệm máu để xác định sự hiện diện của các quá trình ác tính trong cơ thể.
  • Siêu âm thận - sự gia tăng trong d-dimmer có liên quan đến rối loạn chức năng thận. Với sự gia tăng trong thời kỳ mang thai, cơ thể trở nên ngày càng khó kiểm soát sự cân bằng nội môi hóa học.

Mức hạ thấp của d-dimmer

Các bác sĩ nói rằng các trường hợp khi d-dimmer ở ​​một phụ nữ mang thai rơi xuống dưới mức chuẩn là rất hiếm. Nếu phân tích cho thấy một vấn đề như vậy, thì bác sĩ sản khoa phải đối mặt với một nhiệm vụ khó khăn: trong thời gian còn lại trước khi sinh, bệnh nhân nên được kê toa các khóa trị liệu như vậy sẽ dẫn đến một thứ tự tương đối của máu coagulability.

Nếu không, chảy máu sau sinh sẽ trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng đối với cuộc sống của một người phụ nữ.

Nếu g-dimer được hạ xuống - bác sĩ phụ khoa có nghĩa vụ phải gửi bệnh nhân đến nhà huyết học để kiểm tra thêm và khuyến nghị về việc điều chỉnh tình trạng này.

Giám sát các chỉ số đông máu quan trọng không chỉ cho lao động thành công mà còn cho việc mang thai. Giá trị của g-dimmer càng cao, dinh dưỡng thai nhi càng nặng. Kết quả là sự xuất hiện của tình trạng thiếu oxy và tụt hậu trong tử cung chung về cân nặng và chiều cao.

Làm thế nào để chuẩn bị cho việc phân tích?

Để nghiên cứu máu phải được lấy từ tĩnh mạch, vì vậy thường là các thủ tục được thực hiện vào buổi sáng và cảnh báo rằng bệnh nhân phải đến phòng khám trên một dạ dày trống rỗng. Ngoài ra, khi thu thập tài liệu để xác định d-dimer, có các quy tắc đặc biệt:

  • Bạn cần tránh hút thuốc trong một giờ trước khi lấy máu. Hút thuốc kích thích sự hình thành các cục máu đông, do đó sự vắng mặt của kiêng nhịn trong thời gian quy định có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả của nghiên cứu.
  • Nó là cần thiết không ăn các loại thực phẩm béo trong vòng một ngày. Nó kích thích sự gia tăng mức cholesterol trong máu, điều này cũng bóp méo lượng máu.
  • Một ngày trước khi phân tích, bạn nên tự chăm sóc bản thân khỏi những cú sốc thần kinh có thể ảnh hưởng đến mức độ của d-dimer.

Kết quả của nghiên cứu thường sẵn sàng trong 3 ngày làm việc, nhưng đối với mỗi phòng thí nghiệm thời gian xử lý là cá nhân, vì vậy tốt hơn là làm rõ câu hỏi này trong cơ quan đăng ký của phòng khám mà bạn đã đăng ký.

Không coi thường hậu Covid-19 ở sản phụ

Mới đây, Trung tâm Can thiệp Bào thai, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội tiếp nhận điều trị cho sản phụ Hoàng Thị V., bị cạn ối sau nhiễm Covid-19. Sản phụ mang thai ở tuần 24, khi nhiễm Covid-19 cũng hoàn toàn khỏe mạnh, không có những triệu chứng nặng nề. Vì thế, sản phụ chủ quan không đi khám mà chỉ đi kiểm tra thai kỳ theo lịch.

Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Sim, phụ trách Trung tâm Can thiệp Bào thai, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho biết, khi thai phụ đến khám 3 tuần sau nhiễm Covid-19, thai không tăng thêm trọng lượng.

"Chúng tôi phát hiện sản phụ cạn ối, chỉ số D-dimer (chẩn đoán các bệnh lý huyết khối) rất cao, tăng gấp 7 so với người bình thường. Trường hợp này dù có truyền ối cũng không thể điều chỉnh được cơ chế đông máu”, bác sĩ Sim nói.

Thời gian qua, nhiều bà mẹ mắc Covid-19 và được hướng dẫn chăm sóc sức khỏe tại nhà. Tuy nhiên, do không được phát hiện sớm, một số bà bầu rơi vào tình trạng thập tử nhất sinh khi lâm bồn do các biến chứng của Covid-19 đã biểu hiện trên toàn thân.

Mới đây nhất, sản phụ Nguyễn Thị L. lên bàn mổ đẻ ở tuần 38, sức khỏe hoàn toàn bình thường sau nhiễm Covid-19, bất ngờ tím tái toàn thân vì bị tắc mạch. Các bác sĩ đã tiến hành cấp cứu khẩn cấp để cứu được tính mạng sản phụ. Đây là một trong số những sản phụ gặp biến chứng nghiêm trọng do chủ quan không đi khám hậu Covid-19. 

“Có những sản phụ sau ca mổ bắt con bất ngờ ngừng tim, tím tái toàn thân. Trước đó, sản phụ từng nhiễm Covid-19 triệu chứng nhẹ và không đi khám hậu Covid-19. Dù nhiễm Covid-19 nhẹ, nhưng khi cơ thể phản ứng lại sự tấn công của nCoV có thể gây ra tình trạng tắc mạch. Và khi can thiệp dùng thuốc trong mổ đẻ càng làm gia tăng nguy cơ tắc mạch cho sản phụ”, bác sĩ Sim cho hay.

Chỉ số d-dimer tăng cao khi mang thai
 Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Sim cho biết, các sản phụ cần phải quan tâm sức khỏe hậu Covid-19 để tránh những biến chứng trong quá trình sinh nở. 

Theo chuyên gia này, việc tắc mạch có thể xảy ra ở nhiều cơ quan như não, tim, tắc động mạch tử cung. Bởi vậy, việc sinh nở với sản phụ từng nhiễm Covid-19 phải được theo dõi hết sức thận trọng để cấp cứu kịp thời.

Bên cạnh đó, sức khỏe của thai nhi, trẻ sơ sinh cũng là vấn đề được quan tâm đặc biệt khi mẹ mắc Covid-19. Một số bé có mẹ từng mắc Covid-19 gặp nhiều hơn các vấn đề liên quan tổn thương phổi, gan, rối loạn đông máu, loạn nhịp tim, tiêu chảy. Sau khi chào đời, các bé có thể khó thở hơn, sốt nhẹ, giảm tiểu cầu, chức năng gan rối loạn, nhịp tim nhanh, tràn khí màng phổi, có dấu hiệu nôn, khó tiêu,... dù được xét nghiệm cho kết quả âm tính với nCoV.

Sản phụ cần được hỗ trợ sức khỏe, tinh thần sau nhiễm Covid-19

Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Sim cho biết, hậu Covid-19 thường có diễn biến trung bình 1-3 tháng tùy từng người. Bởi vậy, những người sau nhiễm Covid-19 cần chú ý sức khỏe của mình, đặc biệt là các sản phụ.

Qua thăm khám các sản phụ hậu Covid-19, bác sĩ Sim cho biết, có rất nhiều biến chứng xảy ra với thai phụ như rối loạn chức năng thận, men gan tăng cao gây ra khó ăn, nhói ngực do đau tim, đặc biệt là nguy cơ đái tháo đường.

Bởi vậy, các bác sĩ khi thăm khám phải siêu âm, thăm dò trên tử cung để xem quá trình nuôi thai thế nào, đi tìm các biến chứng trên thai nhi để xem xét có cần theo dõi chuyên sâu hay không.

Từ những trường hợp cấp cứu nguy hiểm thời gian quan, bác sĩ Sim nhấn mạnh, việc chủ quan, không tái khám sau khi âm tính với nCoV, thậm chí không xét nghiệm khi làm thủ tục sinh, đã bỏ qua việc tầm soát, sàng lọc phát hiện nguy cơ rất có giá trị sẽ gây ra nguy hiểm cho cả mẹ và con.

Tiến sĩ Sim cho hay nhiều trường hợp bên ngoài rất khỏe mạnh nhưng kết quả xét nghiệm lại cho thấy có tổn thương đa cơ quan. Khi cuộc đẻ kết thúc, những người này không thể tự hồi phục và rơi vào tình trạng rất xấu.

“Nguy cơ đối với nhóm phụ nữ mang thai, bà mẹ sau sinh cao hơn nhiều khi nhiễm Covid-19. Nguyên nhân là nhóm này được xem như đang mang bệnh nền, khả năng miễn dịch kém, do đó nguy cơ mắc bệnh và bị tổn thương nhiều hơn”, tiến sĩ Sim lưu ý.

Theo bác sĩ Nguyễn Công Định, Giám đốc Trung tâm Khám và điều trị, chăm sóc sức khỏe sinh sản, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội Cơ sở 2 - nơi trực tiếp điều trị cho rất nhiều thai phụ nhiễm Covid-19 nhấn mạnh, thai phụ bị ảnh hưởng hậu Covid-19 kéo dài có thể không ảnh hưởng trực tiếp tới cấu trúc em bé trong bụng, song làm tăng nguy cơ bị thai lưu, tiền sản giật hoặc tăng nguy cơ thai chậm phát triển, đẻ non…

Cụ thể, khi mẹ ho nhiều sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung cấp ô-xy cho em bé, tăng áp lực ổ bụng, gây nguy cơ đẻ non. Hoặc khi yếu tố đông máu ở thai phụ tăng lên, làm giảm cung cấp máu cho em bé, làm thai chậm phát triển trong buồng tử cung.

Với các trường hợp này, nếu được thăm khám sớm, bệnh viện đều có phác đồ điều trị toàn diện, bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe cho cả mẹ và bé.

Vì thế, việc khám hậu Covid-19 với các sản phụ đặc biệt quan trọng vì sản phụ cần được khám toàn diện, cân đo huyết áp, đánh giá các triệu chứng, nghe tim phổi, làm xét nghiệm máu, nước tiểu. Nếu không có biến chứng hậu Covid-19, sản phụ sẽ được theo dõi thai kỳ theo lịch bình thường.

Tiến sĩ Sim nhấn mạnh, việc tầm soát hậu Covid-19 không phải khám chỉ để chữa bệnh. Việc làm này còn có ý nghĩa kiểm tra cơ thể đã hoàn toàn ổn định sau thời gian điều trị Covid-19 hay chưa, đồng thời sàng lọc các bệnh lý mạn tính, tiềm ẩn như tiểu đường, tuyến giáp, rối loạn khoáng, một số bệnh tự miễn.

Bên cạnh đó, việc hỗ trợ về mặt sức khỏe tinh thần cho thai phụ rất quan trọng. Sau nhiễm Covid-19, phụ nữ mang thai, bà mẹ sau sinh thường cảm thấy lo âu, hoang mang, ngủ không ngon, từ đó rối loạn các chức năng trong cơ thể.

Một số trường hợp nặng nề hơn có thể trầm cảm, rối loạn hành vi, thậm chí tự sát. Dù số lượng này không lớn, việc không làm chủ được vấn đề sức khỏe tâm thần vẫn rất quan trọng và cần được lưu tâm.

Do đó, khi tới khám hậu Covid-19, các bác sĩ Bệnh viện Phụ sản Hà Nội ngoài tư vấn thai kỳ an toàn, còn giúp các sản phụ vượt qua các triệu chứng hậu Covid-19 khỏe mạnh, giúp họ bổ sung dinh dưỡng, giảm căng thẳng trong quá trình thai kỳ hay sau sinh nở. Điều này cũng giúp nhiều sản phụ vượt qua được trầm cảm sau sinh.

Tập trung khống chế dịch Covid-19 lây lan