Cách kiểm tra sáng kiến kinh nghiệm

Cách kiểm tra sáng kiến kinh nghiệm
19
Cách kiểm tra sáng kiến kinh nghiệm
295 KB
Cách kiểm tra sáng kiến kinh nghiệm
0
Cách kiểm tra sáng kiến kinh nghiệm
16

Cách kiểm tra sáng kiến kinh nghiệm

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

A.ĐẶT VẤN ĐỀ I.LỜI MỞ ĐẦU Trong thời gian qua, cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học thì vấn đề đổi mới trong kiểm tra đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Kiểm tra đánh giá nhằm làm sáng rõ tình hình lĩnh hội kiến thức, sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh, bổ sung, củng cố, hệ thống hoặc khái quát hóa kiến thức đã học, đồng thời chuẩn bị cho việc lĩnh hội kiến thức mới. Mặt khác, qua kiểm tra, đánh giá học sinh, giáo viên có thể tự đánh giá việc giảng dạy của mình. Vì vậy, kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu của quá trình dạy học, là một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học. Kiểm tra đánh giá không chỉ là công việc của giáo viên, mà còn là của cả học sinh. Giáo viên kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Học sinh tự kiểm tra đánh giá việc học tập của mình và kiểm tra đánh giá lẫn nhau. II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng Thực tế cho thấy, việc kiểm tra đánh giá (bao gồm kiểm tra thường xuyên và định kì) vẫn được tiến hành để thúc đẩy học sinh học tập, nhưng đa số học sinh chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học, cho đó là “môn phụ”, ngại học. Mặt khác, một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh giá, cho rằng chỉ cần các em nắm được kiến thức cơ bản trên lớp là được. Hoặc nếu có kiểm tra thì cũng chỉ kiểm tra kiến thức, chứ chưa chú trọng kiểm tra kĩ năng, thái độ, tư tưởng, tình cảm và khả năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Hình thức kiểm tra chủ yếu vẫn là giáo viên kiểm tra học sinh, chưa chú ý đến sự đánh giá của học sinh với học sinh, tự đánh giá của học sinh. Các hình thức kiểm tra vẫn còn đi theo lối mòn. 1 2. Kết quả (hiệu quả của thực trạng trên) Thực tế cho thấy, với cách làm cũ, học sinh còn lười học, chưa có sự say mê với môn học. Nhiều học sinh còn chưa nắm vững kiến thức, mà chỉ học thuộc một cách máy móc. Học sinh thường trả lời câu hỏi của giáo viên đưa ra thông qua việc thụ động nhìn vào sách giáo khoa, thậm chí có một bộ phận học sinh còn đọc y nguyên sách giáo khoa khi trả lời câu hỏi. Học sinh chỉ muốn giải quyết các vấn đề hoặc trả lời các câu hỏi đơn giản, còn các vấn đề mang tính tổng hợp, phân tích, so sánh…thì học sinh còn lúng túng Kiểm tra đánh giá mới chỉ tập trung vào việc giáo viên đánh giá học sinh, ít tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Một bộ phận giáo viên còn chưa thấy hết vai trò của kiểm tra đánh giá, do vậy, việc ra đề kiểm tra nhiều khi còn qua loa, nhiều giáo viên ra đề kiểm tra với mục đích lam sao cho dễ chấm nên kết quả đánh giá chưa khách quan. Việc lập ma trận chưa đúng theo yêu cầu, hệ thống câu hỏi không phù hợp với ma trận, không phân hóa được đối tượng học sinh.. Để khắc phục những quan điểm sai lệch đó, đồng thời để lôi cuốn học sinh tích cực học tập môn Lịch sử thì nhất thiết phải đổi mới việc kiểm tra đánh giá. Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “ Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS” 2 B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra thường xuyên 2. Đổi mới ra đề kiểm tra định kì II.CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Nội dung kiểm tra đánh giá Nội dung kiểm tra đánh giá của môn học cần bao gồm cả các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ. Song chủ yếu tập trung vào kiểm tra, đánh giá kiến thức và kĩ năng của học sinh Về mặt kiến thức, yêu cầu học sinh phải nhớ, nắm vững các kiến thức cơ bản trong chương trình theo 6 mức độ là nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo Về mặt kĩ năng, tức là kiểm tra việc sử dụng bản đồ, lược đồ, lập bảng thống kê, vẽ biểu đồ, kĩ năng so sánh, phân tích.. 2. Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra miệng Kiểm tra miệng giúp giáo viên nhanh chóng nắm bắt được trình độ phát triển tư duy của học sinh, là động lực phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, thúc đẩy học sinh suy nghĩ độc lập, rèn luyện tư duy ngôn ngữ của học sinh. Kiểm tra miệng cung cấp những thông tin ngược nhanh nhất, giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và đánh giá sơ bộ mức độ nắm kiến thức của học sinh, từ đó đưa ra những biện pháp tối ưu, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Kiểm tra miệng được giáo viên sử dụng trong kiểm tra bài cũ. Giáo viên cần thực hiện linh hoạt khâu kiểm tra bài cũ- không nhất thiết phải kiểm tra đầu giờ học mà có thể kiểm tra bất cứ thời điểm nào khi lên lớp. Kiểm tra bài cũ không chỉ để lấy điểm mà còn trên cơ sở kiểm tra kiến thức cũ để phục 3 vụ cho việc lĩnh hội kiến thức mới- điều này đòi hỏi học sinh không chỉ “nhớ” mà phải “hiểu” sâu kiến thức. Trước đây, hình thức kiểm tra rất đơn giản, đó là giáo viên gọi học sinh lên bảng, đặt câu hỏi để học sinh trả lời rồi giáo viên nhận xét cho điểm. Giờ đây giáo viên có thể sử dụng thêm các hình thức sau: - Giáo viên gọi 1 học sinh lên bảng trả lời câu hỏi và yêu cầu cả lớp cùng lắng nghe. Sau đó, gọi 1, 2 em nhận xét, bổ sung phần trả lời của bạn. Cuối cùng giáo viên cho điểm cả em trả lời và em nhận xét. Cách làm này sẽ lôi cuốn được học sinh cả lớp chú ý lắng nghe và giáo viên có thể kiểm tra được nhiều học sinh. -Giáo viên còn có thể gọi 1 hoặc 2 học sinh lên bảng để lập bảng so sánh, vẽ sơ đồ, lập niên biểu, đồng thời đặt câu hỏi khác cho học sinh dưới lớp trả lời. Ví dụ: yêu cầu học sinh lên bảng lập bảng so sánh về chủ trương sách lược của ta trong giai đoạn 1930-1931 và 1936-1939 theo những nội dung sau: Nội dung Giai đoạn 1930-1931 Giai đoạn 1936-1939 Kẻ thù Nhiệm vụ Mục tiêu Hình thức đấu tranh Phương pháp đấu tranh Trong khi đó giáo viên có thể đặt câu hỏi với học sinh ở dưới lớp: “ tại sao ta lại chủ trương tiến hành cuộc vận động dân chủ 1936-1939?” -Giáo viên có thể cho 2 học sinh làm việc với nhau, 1 học sinh đặt câu hỏi, 1 học sinh trả lời dựa trên những dữ kiện mà giáo viên cung cấp. Ví dụ: giáo viên đưa ra các dữ liệu sau trên màn hình máy chiếu: - 8/1566 - Cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới 4 - Nội chiến cách mạng - Chế độ 3 đẳng cấp - Chiến tranh giành độc lập Học sinh A ở dưới lớp đặt câu hỏi để học sinh B ở trên bảng không nhìn vào máy chiếu mà vẫn trả lời đúng các dữ kiện đó. Cụ thể, học sinh A có thể đặt câu hỏi: cuộc cách mạng Hà Lan nổ ra năm nào? Ý nghĩa của cách mạng Hà Lan đối với thế giới? cách mạng Tư sản Anh diễn ra dưới hình thức này?... -Giáo viên có thể yêu cầu học sinh vẽ đường trục thời gian biểu diễn quá trình diễn biến của sự kiện, tiến trình lịch sử Ví dụ: vẽ sơ đồ biểu diễn sự đi lên của cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII? 2/6/1793 10/8/1792 Chuyên chính Gia-cô-banh 27/7/1794 14/7/1789 Xóa bỏ chế độ quân chủ, thành lập chế độ cộng hòa CÁC Cách mạng bùng nổ, hạn chế quyền lợi của vua, xóa bỏ đẳng cấp - Giáo viên có thể kiểm tra vở bài tập của học sinh hoặc kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh ( soạn bài mới, sưu tầm tranh ảnh, vẽ bản đồ, tìm hiểu nhân vật, sự kiện) Ví dụ: học xong bài 26- lịch sử 8 “Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế kỉ XIX” , giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu về nhân vật Hoàng Hoa Thám và phong trào Yên Thế . Đến tiết học sau, giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh để cho điểm 5 3. Đổi mới kiểm tra viết Kiểm tra viết được thực hiện ở đầu hay cuối mỗi tiết học với thời gian 15 phút hoặc được thực hiện trọn trong một tiết…sau khi học xong một chương, một phần của chương trình, cuối mỗi kì hay cuối năm. Với hình thức kiểm tra này, trong cùng một lúc có thể kiểm tra được trình độ của tất cả học sinh trong lớp và có thể kiểm tra được nhiều nội dung. Qua bài làm của học sinh, mức độ lĩnh hội kiến thức, khả năng lập luận của học sinh được bộc lộ rõ. Trên cơ sở đó, giáo viên có thể đánh giá được trình độ chung của cả lớp, trình độ của từng cá nhân, từ đó có kế hoạch cụ thể trong thời gian giảng dạy tiếp theo và có hướng giúp đỡ đối với những học sinh cá biệt của lớp. Đối với kiểm tra 15 phút, giáo viên có thể sử dụng câu hỏi trắc nghiệm hoặc tự luận. Đối với kiểm tra 1 tiết, phải có sự kết hợp giữa câu hỏi trắc nghiệm với tự luận. Khi muốn học sinh nhớ mốc thời gian thì nên sử dụng câu hỏi trắc nghiệm. Ví dụ: hãy nối mốc thời gian ở cột I tương ứng với các sự kiện ở cộtII: Cột I 19/8/1945 Cột II Giành chính quyền ở Huế 23/8/1945 Giành chính quyền ở Hà Nội 25/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh độc tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 Giành chính quyền ở Sài Gòn Tuy nhiên, hình thức này sẽ không đánh giá được khả năng sáng tạo, tư duy của học sinh, học sinh dễ nhìn bài..Do vậy, trong kiểm tra viết, cần có sự kết hợp với câu hỏi tự luận. Đối với câu hỏi tự luận, không nên yêu cầu học sinh ghi nhớ máy móc, mà giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi mở. Ví dụ: đối với học sinh lớp 8, giáo viên đưa câu hỏi: “ Từ hậu quả của 2 cuộc chiến tranh thế giới, em có suy nghĩ gì?”- học sinh sẽ dựa vào bài học và tài liệu để thể hiện suy nghĩ của mình. 6 -Hoặc giáo viên cho học sinh giải thích, bình luận 1 câu nói nổi tiếng của các nhân vật lịch sử Ví dụ: em hiểu thế nào về câu nói của nhà khoa học Nô-ben: “ Tôi hi vọng rằng nhân loại sẽ rút ra được từ những phát minh khoa học nhiều điều tốt hơn là điều xấu”? Đối với loại câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải lập luận, lí giải, chứng minh trên cơ sở các sự kiện mà các em đã biết -Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi yêu cầu học sinh làm việc với đồ dùng trực quan. Ví dụ: đối với học sinh lớp 9, giáo viên đưa câu hỏi: hãy điền kiến thức phù hợp vào các vòng tròn có đánh số thứ tự dưới đây để thể hiện vị trí tập trung binh lực của địch trong chiến cuộc Đông- Xuân 1953-1954 và rút ra nhận xét: 2 1 3 4 5 Hoặc giáo viên yêu cầu học sinh điền tên các nhà thám hiểm theo mũi tên trên lược đồ để thấy rõ hành trình của các cuộc phát kiến địa lí 7 Kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi tự luận có ưu thế là “đo” được trình độ học sinh về lập luận, tức là mức độ hiểu kiến thức, rèn cho các em khả năng trình bày. Trắc nghiệm khách quan có ưu thế là chấm nhanh, bảo đảm tính khách quan, khảo sát được khá toàn diện nội dung học tập, gây hứng thú cho học sinh..Nhưng đối với bộ môn Lịch sử nói riêng, các môn khoa học xã hội nói chung, phương pháp kiểm tra đánh giá này lại có hạn chế là không “đo” được độ sâu kiến thức của học sinh, chỉ “đo” được kết quả mà không “đo” được quá trình dẫn đến kết quả. Do đó, chúng ta cần kết hợp một cách linh hoạt, sáng tạo chúng với nhau trong quá trình tiến hành các hình thức kiểm tra 4.Quy trình biên soạn đề kiểm tra Đề kiểm tra là phương tiện đánh giá kết quả học tập của học sinh sau khi học xong một chủ đề, một chương, một số chương hay toàn bộ chương trình một lớp. Việc biên soạn đề kiểm tra theo quy trình sau: -Xác định mục tiêu và nội dung kiểm tra Đánh giá kết quả học tập là sự phân tích, đối chiếu thông tin về trình độ, khả năng học tập của học sinh so với mục tiêu dạy học đã được xác định. Do đó, cần căn cứ vào mục tiêu cụ thể của từng bài, từng chương để xác định mục tiêu và nội dung kiểm tra 8 -Thiết lập ma trận Để kiểm tra được một phạm vi rộng các kiến thức, kĩ năng; vừa kiểm tra được các mức độ nhận thức, đồng thời có thể chủ động kết hợp loại câu hỏi tự luận với câu hỏi trắc nghiệm khách quan, cần thiết phải lập ma trận hai chiều. Đó là một bảng với một chiều thường là nội dung với các lĩnh vực kiến thức cần đánh giá và một chiều là các mức độ nhận thức của học sinh. Trong mỗi ô là số lượng câu hỏi và hình thức câu hỏi. Nhìn chung, càng nhiều câu hỏi ở nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau thì kết quả đánh giá càng có độ tin cậy cao hơn. Hình thức câu hỏi đa dạng sẽ gây hứng thú, tập trung sự chú ý, tránh nhàm chán đối với học sinh. -Thiết kế câu hỏi theo ma trận Mức độ khó của câu hỏi được thiết kế căn cứ vào mục tiêu và nội dung cần đánh giá. Hình thức câu hỏi (tự luận hay trắc nghiệm) dựa trên ma trận đã thiết kế ở trên -Xây dựng đáp án và thang điểm Đối với hình thức kiểm tra tự luận kết hợp với trắc nghiệm, điểm tối đa toàn bài là 10. Sự phân bố điểm cho từng phần được tuân theo nguyên tắc: tỉ lệ thuận với thời gian dự định học sinh hoàn thành từng phần, mỗi câu trắc nghiệm khách quan nếu trả lời đúng đều có số điểm như nhau. Ví dụ: nếu ma trận thiết kế dành 70% thời gian cho tự luận và 30% cho trắc nghiệm khách quan thì số điểm tối đa cho câu hỏi tự luận là 7, các câu hỏi trắc nghiệm khách quan là 3, mỗi câu trắc nghiệm khách quan trả lời đúng thường được 0,5 điểm. Khi xây dựng câu hỏi cho phần trắc nghiệm khách quan, nhất thiết không được sử dụng một loại duy nhất, giáo viên có thể sử dụng ít nhất 2 trong số các dạng trắc nghiệm khách quan sau: -Câu hỏi đúng- sai: loại này chỉ gồm 2 lựa chọn (đúng hoặc sai) và là loại trắc nghiệm rất đơn giản, dễ sử dụng. Ví dụ: trong các câu sau, câu nào đúng câu nào sai? 9 1.cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo 2.cương lĩnh chính trị đầu tiên có nhiều hạn chế so với Luận cương chính trị -dạng câu hỏi có nhiều lựa chọn: được trình bày dưới dạng một câu hỏi gồm 2 phần- phần dẫn và phần lựa chọn. Phần dẫn là một câu hỏi, có thể là một câu hỏi chưa hoàn chỉnh. Phần lựa chọn bao gồm các phương án trả lời, học sinh phải lựa chọn 1 trong các phương án đó. Ví dụ: Hãy khoanh tròn vào chữ cái in hoa trước ý trả lời em cho là đúng: Tứ đại phát minh của Trung Quốc thời phong kiến là: A.giấy viết, nghề in, đóng thuyền, luyện sắt B.chữ viết, nghề in, la bàn, thuốc súng C.giấy viết, gốm sứ, đóng thuyền, thuốc súng D.giấy viết , nghề in, la bàn, thuốc súng -câu hỏi điền khuyết: căn cứ vào các dữ liệu đã cho hoặc dựa vào kiến thức đã học mà tìm các từ, các cụm từ điền vào chỗ trống Ví dụ: hãy điền các cụm từ vào chỗ ... cho đúng với ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám: người dân độc lập tự do, xiềng xích nô lệ, trở thành một nước độc lập, một sự kiện vĩ đại “cách mạng tháng Tám là……… trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó đã phá tan hai tầng……của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời nó còn lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế ngót ngàn năm. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa đã…..dưới chế độ dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành………làm chủ nước nhà” -Dạng câu ghép đôi: được trình bày dưới dạng một bảng thống kê bao gồm hai cột: cột thời gian và cột sự kiện- học sinh phải nối thời gian với sự kiện cho đúng Ví dụ: hãy nối sự kiện với thời gian khởi nghĩa trong cách mạng tháng Tám cho đúng: 10 Sự kiện Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội Khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế Khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập Thời gian 23/8/1945 19/8/1945 2/9/1945 25/8/1945 16/8/1945 Sau đây là các giáo án minh họa về đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh trong dạy học Lịch sử THCS LỊCH SỬ 9- TIẾT 25- BÀI 21: VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1939-1945 Trước tiết học này, học sinh đã được học tiết 23 “phong trào cách mạng trong những năm 1930-1935” và tiết 24 “cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936-1939”, do vậy giáo viên kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh ở các bài trước bằng cách yêu cầu 2 học sinh lên bảng lập bảng so sánh về chủ trương sách lược của ta trong giai đoạn 1930-1931 và 1936-1939 theo những nội dung sau (mỗi học sinh một giai đoạn): Nội dung Giai đoạn 1930-1931 Giai đoạn 1936-1939 Kẻ thù Nhiệm vụ Mục tiêu Hình thức đấu tranh Phương pháp đấu tranh Đồng thời yêu cầu 1 học sinh khác trả lời câu hỏi: “tại sao ta lại chủ trương tiến hành cuộc vận động dân chủ 1936-1939?”. Như vậy, trong một khoảng thời gian nhất định, giáo viên đã kiểm tra được nhiều học sinh Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức để các em biết được tình hình thế giới và Đông Dương sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ đã tác động như thế nào đến tình hình Việt Nam; hiểu rõ những thủ đoạn mà Nhật- Pháp đã tiến hành để áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương; đồng thời thấy được chính sự áp bức đó đã dẫn đến các cuộc khởi nghĩa Bắc 11 Sơn, khởi nghĩa Nam Kì và binh biến Đô Lương…Để củng cố kiến thức, giáo viên có thể đưa ra bài tập nhận thức cho học sinh như sau: Củng cố: giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng hoàn thiện bảng sau: Sự kiện Nhật tiến đánh Lạng Sơn Thời gian Khởi nghĩa Bắc Sơn Khởi nghĩa Nam Kì Binh biến Đô Lương Cuối tiết học, giáo viên giao bài tập về nhà cho học sinh, yêu cầu các em về vẽ lược đồ khu giải phóng Việt Bắc Như vậy qua giáo án minh họa (minh họa những phần liên quan đến nội dung đề tài) trên cho thấy giáo viên không chỉ kiểm tra kiến thức, mà còn có thể kiểm tra cả kĩ năng vẽ bản đồ của học sinh. Việc kiểm tra đánh giá không chỉ tiến hành đầu giờ học, mà còn ở phần củng cố bài. Đồng thời với việc yêu cầu học sinh về vẽ bản đồ cho tiết học sau, giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh vào tiết học sắp tới và cho điểm các em. Chính sự đổi mới đó đã tạo ra sự hứng thú cho học sinh và góp phần vào việc nâng cao hiệu quả giờ học. ĐỀ KIỂM TRA LỊCH SỬ 9 (1 TIẾT- HỌC KÌ II) A. Mục tiêu và nội dung kiểm tra - kiểm tra việc lĩnh hội kiến thức của học sinh phần lịch sử Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho tới khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi - kiểm tra kĩ năng làm việc với đồ dùng trực quan của học sinh, kĩ năng nhận xét, đánh giá - giáo dục học sinh lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc 12 B. Ma trận ( theo hình thức ma trận đã được triển khai thực hiện từ các năm học trước) Các mức độ cần đánh giá Nhận biết Thông Vận dụng hiểu TN TL TN TL TN TL 1(2) Các chủ đề chính Bài 24: cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân Bài 27: cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc Tổng số điểm B. Đề bài I. Tổng số điểm 2 1(1) 1(5) 1(2) 8 3 5 2 10 Trắc nghiệm Câu 1(1 điểm): Hãy khoanh tròn vào chữ cái trước ý trả lời đúng: a) chiến dịch nào được xem là đỉnh cao trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)? A. Chiến dịch Việt Bắc B. Chiến dịch Biên giới C. chiến dịch Tây Bắc D. chiến dịch Điện Biên Phủ b) hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương được kí ngày: A. 7/5/1954 C. 21/7/1954 B. 8/5/1954 D. 20/7/1954 Câu 2(2 điểm): em hãy ghi tiếp sự kiện vào cột II sao cho phù hợp với thời gian ở cột I: Cột I 23/9/1945 6/1/1946 6/3/1946 14/9/1946 II. Cột II Tự luận 13 Câu 3(2điểm): Hãy điền kiến thức phù hợp vào các vòng tròn có đánh số thứ tự dưới đây để thể hiện vị trí tập trung binh lực của địch trong chiến cuộc Đông- Xuân 1953-1954 và rút ra nhận xét: 2 1 3 4 5 - nhận xét: …………………………………………………………………………………… Câu 4(5điểm):em hãy trình bày ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)? C. Phần Đáp án và thang điểm câu 1 a) D b) C - 23/9/1945, thực dân Pháp xâm lược nước ta lần 2 2 - 6/1/1946, tổng tuyển cử bầu quốc hội khóa I (2 điểm) - 6/3/1946, hiệp định Sơ bộ - 14/9/1946, tạm ước Việt- Pháp - điền theo số thứ tự: 1. đồng bằng bắc bộ 2. Điện Biên Phủ 3 3. Xê- nô (2 điểm) 4. Luông-pha-băng 5. Plây-cu - nhận xét: từ 1 điểm tập trung quân (đồng bằng Bắc Bộ), địch phải bị động phân tán nhiều nơi ( Điện Biên Phủ, Xê-nô, Luông-pha-băng, Plâycu) kế hoạch Na-va bước đầu bị phá sản * Ý nghĩa lịch sử - đối với dân tộc: (1 điểm) Trắc nghiệ m Tự Nội dung cần đạt Điể m 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 1 1 14 luận + chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp + miền Bắc giải phóng, xây dựng CNXH - đối với thế giới: + góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân + cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc 4 thế giới (5 điểm) * Nguyên nhân thắng lợi - chủ quan: + sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh + cuộc kháng chiến tiến hành trong điều kiện thuận lợi: hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân,mặt trận dân tộc thống nhất, lực lượng vũ trang 3 thứ quân, hậu phương vững mạnh - khách quan: + tinh thần đoàn kết chiến đấu của 3 dân tộc Đông Dương + sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các lực lượng dân chủ 0,75 0,75 0,5 0,5 0,75 0,75 0,5 0,5 C.KẾT LUẬN 1. Kết quả nghiên cứu Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện giảng dạy, chất lượng khảo sát học sinh sau các tiết dạy thực nghiệm đã cho thấy ưu thế của đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. Kết quả cụ thể như sau: 15 Tổn g số Loại khá Loại TB Loại yếu kém ( điểm 9-10) (điểm 7-8) ( điểm 5-6) ( dưới 5) Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ lượng 20 (%) 52,6 lượng 12 (%) 31,6 lượng 6 (%) 15,8 lượng 0 (%) 38 44 8 18,2 20 45,5 11 25 5 11,3 bài Lớp thực Loại giỏi nghiệm 9A(38 HS) Lớp đối chứng 9B ( 44 HS) 2. Bài học kinh nghiệm rút ra Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được của quá trình dạy học, biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học. Nó không chỉ là công việc của giáo viên mà cả của học sinh. Giáo viên kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh tự đánh giá lẫn nhau. Trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh môn Lịch sử, cần phải căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để đánh giá kết quả học tập của học sinh cho sát, đảm bảo yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng sau mỗi bài, mỗi chủ đề. Khắc phục tình trạng thiên về kiểm tra ghi nhớ kiến thức, tăng cường ra đề “mở” nhằm kiểm tra mức độ thông hiểu và vận dụng tổng hợp tri thức để giải quyết vấn đề Coi trọng kiểm tra đánh giá kĩ năng diễn đạt các sự kiện bằng lời nói, đọc và khai thác sơ đồ, lược đồ, sa bàn, hiện vật, sử dụng máy tính, máy chiếu… Vận dụng linh hoạt các hình thức kiểm tra đánh giá: kiểm tra miệng có thể tiến hành vào đầu giờ hoặc trong quá trình dạy học; trong kiểm tra viết cần vận dụng linh hoạt giữa câu hỏi trắc nghiệm và tự luận, nhất thiết phải lập ma trận trước khi ra đề kiểm tra 16 Khuyến khích vận dụng các hình thức kiểm tra đánh giá thông qua các hoạt động học tập ngoài lớp học của học sinh, như: phân tích đánh giá các số liệu bản đồ, làm đồ dùng dạy học.. 3. Kiến nghị, đề xuất Qua kết quả thực nghiệm, chúng tôi thấy, việc đổi mới kiểm tra đánh giá là cần thiết để tạo hứng thú học tập cho học sinh và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Muốn vậy, giáo viên phải được tiếp cận với các tài liệu và tham gia nhiều hơn nữa các lớp chuyên đề giới thiệu về việc đổi mới kiểm tra đánh giá. Mặt khác, các nhà trường cũng cần trang bị thêm phương tiện, thiết bị hiện đại để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Trên đây là toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm về “Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử THCS” của bản thân tôi. Sáng kiến này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để tôi có thể hoàn thiện hơn sáng kiến của mình cũng như góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong các năm học tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn. Ngày 9 tháng 3 năm 2011 Người thực hiện Trương Thị Hương 17

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.