Ít ai biết rằng, những tờ tiền giấy mà chúng ta đang để trong ví, đang tiêu hằng ngày có một lịch sử hết sức thú vị. Show
Hãy bắt đầu bằng những tờ tiền quen thuộc chúng ta đang dùng để mua bán hằng ngày ở thời điểm hiện tại, rồi “ngược dòng” lịch sử, để thấy được sự thay đổi, biến động của tiền Đồng Việt Nam. Tiền polymer (2003 – Nay)Hiện trên thế giới đã có 23 nước lưu hành đồng tiền in trên chất liệu polymer, trong đó có ba nước sử dụng toàn bộ tiền polymer trong hệ thống tiền tệ; một số nước dùng giấy polymer cho một số mệnh giá; 6 nước hiện đang thử nghiệm tiền polymer dưới hình thức tiền lưu niệm. Tiền polymer tại Việt Nam hiện nayTiền polymer tại Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành năm 2003, có giá trị lưu hành song song với các đồng tiền cũ, với mục tiêu đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ về cơ cấu mệnh giá (thêm loại tiền có mệnh giá lớn), chủng loại. Tiền polyme có nhiều ưu điểm, như: khó làm giả, độ bền cao, không thấm nước, thích hợp sử dụng trong các thiết bị hiện đại như ATM, máy đếm tiền. Tiền giấy giai đoạn từ 1990Trước thời kỳ Việt Nam sử dụng tiền polymer là các tờ tiền giấy cotton có mệnh giá 10.000 và 20.000 được in năm 1990, tờ 50.000 được phát hành từ 15/10/1994 còn tờ 100.000 từ ngày 1/9/2000. Tiền mệnh giá 100 đồng những năm 1990Trong khi đó, tiền xu có một vài năm xuất hiện trên thị trường nhưng không phù hợp với phong cách tiêu tiền của người Việt Nam, nên nhanh chóng bị xếp thành loại vật dụng lưu niệm. Tiền giấy những năm 1985Tiền Đồng Việt Nam năm 1985Năm 1985, trước diễn biễn phức tạp của nền kinh tế và tình hình khan hiếm nghiêm trọng tiền mặt trong thanh toán, Nhà nước công bố đổi tiền theo tỉ lệ 10 đồng thống nhất đổi 1 đồng tiền mới phục vụ cho cuộc cách mạng về giá cả và lương. Ngân hàng quốc gia Việt Nam đã ban hành các loại tiền 10, 20, 50 đồng. Tiền giải phóng sau năm 1975Tiền Giải Phóng những năm sau 1975Sau thống nhất đất nước 30/4/1975, tiền lưu hành ở miền Nam mất giá và được đổi tên thành tiền giải phóng. Đến năm 1978, sau khi Nhà nước ổn định và thống nhất về tài chính, tiền Việt Nam tiếp tục thay đổi. Ở miền Bắc, 1 đồng giải phóng đổi 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi 8 hào thống nhất. Đồng thời nhà nước cũng phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Tiền giấy do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành năm 1951Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với các nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp. Tiền do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hànhTừ đó tiền giấy do Ngân hàng quốc gia Việt Nam phát hành chính thức được đưa vào sử dụng. 1 đồng ngân hàng đổi được 10 đồng tài chính (đồng Cụ Hồ), và gồm nhiều mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1000, 5000. Hình thức tiền ngân hàng khá giống với trước đây và chỉ thay đổi về các bức hình in ở mặt sau cùng màu sắc ở mỗi mệnh giá tiền. Giấy bạc Cụ Hồ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945Người Việt Nam thời ấy luôn gọi tiền giấy là “giấy bạc Cụ Hồ”Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, tiền đồng cũng chính thức được in và lưu thông để khẳng định chủ quyền của đất nước tự do. Bắt đầu từ thời điểm này cho tới nay, chúng ta đã thay đổi tiền cả về hình thức, chất liệu đến mệnh giá. Trước khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời, trên mỗi tờ tiền đều in chữ "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt sau của tờ tiền thường in các hình ảnh khác về giai cấp Nông - Công - Binh. Các con số ghi mệnh giá đều được viết theo số Ả- Rập hoặc bằng chữ Hán, Lào, Campuchia. Người Việt Nam thời ấy luôn gọi tiền giấy là “giấy bạc Cụ Hồ”. Giấy bạc Đông Dương – tờ tiền giấy đầu tiên của Việt NamGiấy bạc Đông DươngTờ tiền giấy đầu tiên được lưu thông ở Việt Nam là đồng Đông Dương mệnh giá 100 đồng bạc, được người Pháp phát hành và lưu thông trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954. Trên đó có in hình 3 thiếu nữ với trang phục truyền thống của 3 nước Lào, Campuchia và Việt Nam.
Ở trong giếng trời giữa Ngân hàng Anh tại London có trồng một cây dâu – loại cây phương đông hiếm có ở nước Anh. Tại sao lại vậy? Hóa ra, loại tiền giấy ra đời đầu tiên trên thế giới là “giao tử” do người Trung Quốc phát minh ra và nguyên liệu làm ra nó chính là lá cây dâu tằm. Người phát minh ra "giao tử" chính là Trương Vịnh, được mệnh danh là một Thần Nhân.
Trương Vịnh từ nhỏ đã thích bắn cung, luôn muốn trở thành kiếm khách hào khí ngút trời, hành hiệp trượng nghĩa, có thể xông pha thiên hạ giải cứu bách tính gặp hoạn nạn. Người thiếu niên ý chí phơi phới này du ngoạn khắp nơi thực sự đã dạy dỗ không ít những tên cường đạo ác bá. Mãi đến năm 19 tuổi, đến tuổi thi cử. Do từ nhỏ Trương Vịnh đã ý thức được tri thức mới là sức mạnh, cần phải cố gắng học hành nhưng nhà Trương Vịnh rất nghèo, phải mượn sách của người khác để chép lại học. Ông học hành chăm chỉ cần cù, không có bàn học thì ngồi dựa lưng vào thân cây cổ thụ trong vườn để đọc sách, không đọc hết một bài thì quyết không vào phòng nghỉ ngơi.
Trương Vịnh làm việc gì yêu việc đó, yêu việc gì thành công việc đó. Du hiệp có bá khí, học hành cũng rất xuất chúng. Ông học hành khắc khổ trong hoàn cảnh khó khăn, thi đỗ Tiến sĩ, khoác lên mình quan phục bước vào chốn quan trường. Sau khi làm quan, Trương Vịnh vẫn rất chính trực thanh liêm, ông ghét nhất là những tên tham quan ô sứ. Khi làm huyện lệnh ở huyện Sùng Dương, một ngày nọ ông nhìn thấy một viên khố sứ (chức quan trông coi ngân khố) bước ra từ ngân khố, phía dưới khăn đội đầu có lộ ra một đồng tiền. Sau khi điều tra phát hiện đây là tiền trong ngân khố, hơn nữa tên khố sứ này đã thường xuyên lấy tiền từ ngân khố ra dùng. Thế là Trương Vịnh đã ra lệnh phạt đòn tên khố sứ này.
Tên khố sứ không phục còn khiêu khích: “Chẳng qua chỉ là một đồng tiền mà thôi, ngươi lại dùng gậy để phạt ta ư? Ngươi đánh ta được chứ làm sao giết được ta?”. Trương Vịnh nói một cách trịnh trọng rằng: “Một ngày một đồng, ngàn ngày là 1000 đồng, thừng cưa gỗ đứt, nước chảy đá mòn”. Sau đó đích thân xử trảm tên khố sứ đó, tiếp đó chủ động tới đài Ngự Sử để tự kiểm điểm về những sai lầm của mình. Ngoài việc trừng phạt tên khố sứ, Trương Vịnh còn dám đối đầu với cả quan trên. Khi làm Tri châu ở Ích Châu, ông phát hiện thuộc hạ của thái giám Vương Kế Ân đang được sủng ái khi ấy hãm hại người dân, không hề nể tình mà bắt ngay tên đó ném xuống giếng dìm chết, trừ hại vì dân.
Nhưng Trương Vịnh hoàn toàn không phải là kẻ lỗ mãng, cọc cằn, hành sự bồng bột, ông cũng có năng lực tài giỏi hơn người. Trương Vịnh phá án như thần, thậm chí còn hơn cả Địch Nhân Kiệt và Bao Chửng. Trong bộ các vụ án “Chiết ngục quy giám” nổi tiếng có ghi chép 395 vụ án đặc sắc từ thời Tiên Tần, Lưỡng Hán tới cuối thời Bắc Tống, trong đó có ghi chép số vụ án Trương Vịnh phá được lên đến hơn 20 vụ, nhiều nhất trong số các vị “thần thám” thời cổ đại Trung Quốc. Trương Đại Nhân cũng là một nhà kinh doanh “mát tay”. Khi còn ở huyện Sùng Dương, Trương Vịnh cổ vũ người dân trồng dâu nuôi tằm, ban đầu có hơi khổ hơi mệt, người dân cũng có oán thán, Trương Đại Nhân bèn dùng một số chính sách cưỡng chế thực hiện. Vài năm sau, cùng với những lợi ích kinh tế ngày càng gia tăng rõ rệt, người dân cũng ngày càng giàu có hơn, khen ngợi Trương Vịnh hết lời.
Sau này khi mới tới Ích Châu nhậm chức, nơi này vừa mới trải qua phản loạn, hoang tàn vô cùng. Trương Đại Nhân đã tổ chức “chiêu thương”, ông yêu cầu các thương nhân làm ăn buôn bán ở Ích Châu phải dùng loại tiền giấy mà nơi này phát minh, đây chính là “tổ tiên” của tiền giấy – giao tử. Sự lưu thông của tiền giấy đã tích cực thúc đẩy phát triển thương nghiệp, không lâu sau thì Ích Châu trở thành trung tâm thương nghiệp của Tây Nam. Trương Vịnh trị lý đất Thục thành công, tạo phúc cho bách tính. Trương Vịnh với cốt khí cứng cỏi, cuối cùng đã sánh tên cùng với Triệu Phổ, Khấu Chuẩn, trở thành một trong những danh thần thời Bắc Tống. |