Thủy tổ của trà đạo nhật là ai

Trà là gì, có nguồn gốc từ nước n ào ? xuất sứ từ đâu ? mời các bạn hãy theo dõi bài viết dưới đâu nhé !

Trà là gì ?

Cây Trà hay cây Chè có tên khoa học là Camellia sinensis là loài cây mà lá và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất trà – đừng nhầm với cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là “Trung Quốc” trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis.

Nguồn gốc của trà theo huyền thoại

Người Á Đông biết dùng trà trước tiên trong lịch sử. Tuy nhiên người ta biết dùng trà vào thời nào vẩn là câu hỏi chưa giải đáp được. Theo một thần thoại Trung Quốc và Nhật Bản, một thiền sư Tây Trúc ở Trung Quốc nhân vì không muốn ngủ quên trong lúc ngồi thiền, đã cắt đứt hai mí mắt vứt xuống đất. Tự nhiên từ đó nảy sinh ra cây trà và người dùng trà đầu tiên là các thiền sư, họ uống trà để tâm trí được bình thản và quên buồn ngủ trong khi ngồi thiền. Với huyền thoại Nhật Bản, vị thiền sư này không ai khác chính là Bodai Daruma ( Bồ đề đạt ma).

Thật sự thì chúng ta có thể biết rỏ hơn là trà đã được dùng trước thời tổ Đạt Ma mang Thiền Tông vào Đông Độ ( Khoảng cuối thế kỉ thứ 5 SCN) khá lâu. Tuy nhiên, huyền thoại này có ý nghĩa thật sự là trà, nghệ thuật dùng trà như ta sẽ thấy, quả thật có rất nhiều liên quan đối với thiền gia, đạo gia. Chính những vị này đã dùng trà đầu tiên và hơn nữa, đã biến trà thành một nghệ thuật tinh vi.

Một huyền thoại phổ thông nữa là trà được biết đến từ thời thần nông ( Khoảng 3000 năm TCN). Thần nông như  chúng ta biết vẩn được các dân tộc á đông coi như vị thần đã dạy con người  biết đến nông nghiệp nên được gọi là Thần Nông. Thần nông lại sai mặt trời tỏa sáng và hơi nóng giúp cho cây cỏ sống được nên cũng có tên khác là Viêm đế ( Vua coi về sức nóng). Nên nhớ theo truyện cổ nhân gian Việt Nam thì người Việt Nam đều là con cháu vua Thần Nông :” Đế Minh là con cháu 3 đời họ Viêm Đế Thần Nông, sinh ra Đế Nghi. Đi tuần  về phía nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên, sinh ra lộc tục… Phong Lộc Tục ( con được gọi Kinh Dương Vương) để trị phương Nam, lấy tên nước là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới thủy phủ, sau đó lại lấy con gái Long Vương ở Hồ Động Đình sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Lông Quân…”( truyện họ Hồng Bàng, Lĩnh Nam Chích Quái).

Thần Nông (2737 -2697 TCN) là một trong Tam Hoàng, ba ông vua đầu tiên của Trung Quốc trong huyền sử ( theo tài liệu về sử học và khảo cổ học thì người ta mới chỉ công nhận có thời nhà Thương (Ân), 1384 – 1111 TCN, cho đến ngày nay có dấu vết rỏ ràng, là chính sử). Những thế kỉ về trước các học giải sử gia Việt Nam đã thường tỏ ý nghi ngờ về truyền thuyết họ Hồng Bàng là con cháu Thần Nông, và cho rằng ông cha tạo ra huyền thoại đó chỉ vì lòng tự ái dân tộc, muốn cho rằng Việt Nam cũng ngang hàng với Trung Quốc vì cũng có cùng một ông tổ xa xưa… Những năm gần đây, giới học giả với các tài liệu về cổ nhân học và khảo cổ học bắt đầu bàn bạc bác lai thuyết thiên di. Nhưng tôi lại cho rằng, ( Thần Nông có thể là một bộ lạc hoặc nhiều bộ lạc hoặc một người lãnh đạo bộ lạc) chính là người Việt cổ. Chính những người này đã dạy dân tộc Trung Quốc biết đến nghề nông. Chứng cứ hiển nhiên là giới nhiên cứu quốc tế đã khẳng định bằng phương pháp đo phóng xạ Carbon các cổ vật, để chứng minh Việt Nam đã biết đến Nông Nghiệp trước Trung Quốc khoảng 500 năm. Các di tích mới đào được ở vùng Ân Khư, ngày ấy là huyện An Dương, tỉnh Hồ Nam (Kinh củ thời nhà Thương ) đã cho thấy có rất nhiều cổ vật có dấu vết Lạc Việt : từ các hình cá sấu, trâu, voi, trĩ đến loại đồ gốm đen… Cũng nên biết ngay tên Thần Nông ( Shen – nung), dù đã là tiếng Hán cũng vẩn còn giữ được cấu trúc việt ngữ ( đúng theo cấu trúc chữ hán phải là nông thần giống như Viêm đế).

Trở lại với huyền thoại Thần Nông đã biết dùng trà. Các học giả cổ của Trung Quốc đã dẩn chứng trong sách Bản Thảo ( là quyển sách cổ nhất về y học Trung Quốc, vừa được Bắc Kinh cho dịch ra ngoại văn).

Nguồn gốc trà theo thư tịch

Triết gia Chu Hi (1130 – 1200) có lẻ là người đầu tiên dựa vào dẩn chứng  ngôn ngữ, dẩn theo các nhóm tân học cận đại như trường hợp Lâm Ngữ Đường. Theo họ chu trong Lễ Ký và kinh thi ( Những tác phẩm xuất hiện khoảng 1000 – 500 TCN) đã có nhắc đến ” trà”.

Quả thực, Lễ ký có nói đến món heo sữa nấu xong rồi được gói với lá trà, Kinh thi thì nói đến các thiếu nữ đẹp như hoa trà, thiên ” Thất nguyệt ” có viết:

Thất nguyệt thực qua

Bác nguyệt đoạn hồ

Cữu Nguyệt thúc thư

Thái đồ tân xư…

( Tháng bảy ăn dưa; tháng tám cắt bầu; tháng chín thu vừng; hái ” trà” đốt nương…)

Các học giả đông tây kết luận, như vậy người á đông đã biết đến ” trà” hàng năm sáu trăm năm trước công nguyên. Hơn nữa, sách Nhĩ Nhã ( một quyển tự điển đầu tiên của nhân loại vẫn được coi là do Chu Công (1100 TCN) viết, sau đó được Tử Hạ ( 500 TCN) học trò khổng tử san nhuận và đến đời nhà Hán, Quách phác (276 – 324 SCN) viết phần chú thích và chia thành 16 phần là nhà cửa kiến trúc, vật dụng, cỏ cây, cầm thú…) trong Thảo Mộc Môn đã nói đến ” trà”.

Nhưng vấn đề ở đây là chữ ” trà” trong tất cả thư tịch cổ nói trên : Kinh Thi, Nhĩ Nhã, Lễ Ký, đều viết ngày nay đọc là ” Đồ”, chỉ khác chữ ” Trà” một nét nhỏ. Vậy ” Đồ” là “Trà” ? Trong sách Nhĩ Nhã thì đã nói đến ” Khổ Đồ” và các cổ tịch cũng nói đến đặc tính đắng chát ( khổ) của ” đồ” . Sách thuyết văn của Hứa Thận viết năm 121 SCN lại nói rỏ hơn là ” Ming” là tên búp non hái từ cây Đồ. Thế mà ” Ming ” ( cũng đoc là ” Mính” hay ” Dánh” theo âm Hán Việt) thì xưa nay cũng thường dùng lẫn lộn với chữ ” Trà”.

Như vậy đã chứng minh được sự thực người Á Đông biết đến trà từ nhiều năm trước Công Nguyên ? Sự thực cho đến ngày nay theo khoa học về cây cỏ ( Botany) thì người ta biết được cây Đồ cũng có vị đắng giống trà. Đồ có tên khoa học là Sonchus Oleraceus. Như vậy đồ khác xa cây trà (Camellia Sinensis). Cây Đồ vẩn còn được người Trung quốc dùng đến ngày nay dưới một tên bình dân là ” khổ trà ” ( trà đắng). Vì vậy, vấn đề lại trở nên rắc rối hơn. Quả thật theo cổ thư tịch người Trung Quốc đã biết dùng ” Đồ” làm đồ uống từ năm sáu trăm năm trước Công Nguyên, nhưng vẩn chưa thể chứng minh là thời đó ” Đồ” với  ” Trà” là một hay là hai.

Chúng ta chỉ biết chắc chắn là đến thời nhà Đường (từ năm 618), trà đã là một món đồ uống rất phổ thông trong xã hội Trung Quốc. Có nhiều tên để gọi trà, nhưng sau khi quyển trà kinh ra đời ( khoảng giữa thế kỷ thứ 8 ) thì danh xưng trà đã thay thế cho tất cả các danh xưng khác.

Nguồn gốc trà theo khoa học về cây cỏ

Cây trà không phải là thổ sản của Trung Quốc , hiện nay cả thế giới uống trà. Tất cả giống trà này đều lấy từ cây trà Trung Quốc ( Camellia Sinensis). Tất cả đều công nhận rằng người Trung Quốc dạy cho tất cả loài người biết uống trà. Nhưng có một sự kiện đáng ghi nhận là người ta không tìm thấy cây trà hoang ở Trung Quốc.

Cho đến khoảng năm 1935 khi người Anh khai thác Ấn Độ để làm sở trà (hiện nay Ấn Độ sản xuất trà nhiều thứ nhì sau Tích Lan) với giống trà Trung Quốc, thì vô tình người ta mới thấy một loại cây rừng ở vùng cực Đông Bắc Ấn Độ, Vùng Assam, từ trước vốn chưa ai biết kể cả dân  bản xứ. Loại cây này cao đến hơn 30 mét. Và sau khi nghiên cứu, các nhà thực vật học mới giật mình : Đây là cây trà, cây trà nguyên thủy cùng họ cùng chủng và cùng gốc với cây trà Trung Quốc.

Có lẽ, chúng ta quen nhìn loại trà trong vườn trà ở Trung Quốc hay Việt Nam, thường rất thấp để tiện hái và cũng vì cứ 5, 6 năm lại phải cắt trụi đi cho cây sinh cành mới ( giống như nho ) nên không thể biết cây trà nếu mọc tự nhiên là một loại thân mộc. Cây trà Trung Quốc vì đã bị thuần hóa cả ngàn năm nên nếu không cắt cũng đã cao đến hơn 20 mét. Vì vậy, loại ” Hầu trà” trong truyền thuyết chính là loại cây trà này.

Sau khi tìm được cây trà rừng ở Assam người ta còn tiếp tục tìm đươc các cây trà rừng trạng thái thiên nhiên ở các vùng biên giới Ấn Độ, Tây Tạng, Miến Điện, Trung Quốc. Đó cũng là vùng đất biên giới Vân Nam và đồng ý vùng này mới là nơi có cây trà mọc tự nhiên đầu tiên. Nếu nhìn bản đồ Lạc Việt từ thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang cho đến thời hai bà Trưng khởi nghĩa, ta thấy vùng đất này cũng là biên giới Lạc Việt, dù tên là ” Nam Chiếu ” , ” Đại lý”, ” Tây thục” … thì xưa đều thuộc về Quế Lâm của ta. Loại trà rừng này chỉ khác là cho nước đậm hơn, nhưng kém hương hơn loại trà Trung Quốc.

Ở đây, tôi chưa vội kết luận rằng chính người cổ Việt đã giới thiệu cây trà cho Trung Quốc, chỉ biết tạm ở đây rằng về cổ thư tịch ở Việt Nam có rất muộn, lại bị quân Minh tàn phá tất cả. Cổ thư tịch cổ nhất Việt Nam, tôi chỉ thấy trong sách An Nam chí Lược của Lê Tắc, một người phản quốc qua Tầu lưu vong, viết khoảng năm 1271, rằng năm Tống Thái Tổ thứ 8 (971), vua Đinh Liễn Việt Nam đã phải cống cho Trung Quốc ngà voi, sừng tê, trà thơm … (Khai bảo tứ niên… Thái Tổ chiếu Liễn vi tiết – đô – sứ, An Nam đô hộ. Bát niên ngũ nguyệt cống kim, bạch, tê giác, tượng nha, hương trà…)

Trà Kinh của Lục Vũ cũng khẳng định : ” trà là loại cây quý ở phương nam…” Sách Quảng Bác vật chí cũng viết : “Trà ở Giao Chỉ xanh như rêu, vị cay, nóng…”.Tất cả những cổ thư tịch này, kể cả An Nam Chí Lược, cũng đều là sách của Trung Quốc.

Thế giới biết đến trà càng muộn hơn nữa. Marco Polo có nói đến trà, nhưng phải đến năm 1559 với sự xuấn bản ba cuốn sách.

Nguồn gốc trà đạo Nhật Bản

Trà đạo là gì ?

Trà đạo, tiếng Nhật: chanoyu (茶の湯) hoặc chadō (茶道), được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12.

Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn “Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký” (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.

Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật.

Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực của từ này. Hiển nhiên ở đây trà đạo không đơn thuần là con đường, là phép tắc uống trà mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách: trước tiên, hòa mình với thiên nhiên, để từ đây tu sửa tâm, nuôi dưỡng tính và đạt tới giác ngộ.

Những bộ ấm trà thường được dân trà đạo Nhật Bản dùng

Các bộ ấm trà men rạn giả cổ bọc đồng là những tuyệt tác của làng nghề Bát Tràng, đỉnh cao của nghệ thuật chảy men tinh tế, hoài cổ và trang trọng với viền bọc đồng tỉ mĩ chính là điểm sáng của bộ những bộ sản phẩm ấm trà cao cấp Bát Tràng men rạn bọc đồng, Bạn có thể mua làm quà dịp tết này, đầy ý nghĩa sâu sắc mà không sợ đụng hàng với bất kì ai.

Những sản phẩm ấm trà Nghệ nhân được sản xuất dành riêng cho khách hàng đặc biệt với số lượng rất ít, mức giá khá cao nhưng những gì mà nó thể hiện chính là sự độc đáo và tinh thế của tài hoa người thợ gốm Bát Tràng, một tài nghệ được nung vùi qua năm tháng dài tích lũy kinh nghiệm và bao nhiêu mẻ Gốm Hỏng trong quá trình thử nghiệm.

Muốn mua những bộ ấm trà được dùng cho trà đạo trên mời các bạn liên hệ:

DT: 02838.123.246

Hotline : 0888.032.333

Showroom 1: 021 Nguyễn Văn Linh – P. Tân Phong, Quận 7 , Tphcm.
Showroom 2 : 21 Cộng Hòa – Phường 4 – Quận Tân Bình – Tphcm.
Showrooms 3 : 6 Chế Lan Viên, Tây Thạnh, Tân Phú, Hồ Chí Minh.
Showroom 4 : 98 Võ Thị Sáu, P. Tân Định,Q1

Thông qua bài viết Trà có nguồn gốc từ nước nào ? nguồn gốc trà đạo Nhật bản ? chúng tôi hy vọng cung cấp cho bạn nhiều thông tin bổ ích về nguồn gốc của trà, xuất sứ của trà và địa chỉ bán những bộ trà đẹp tinh tế để bạn lựa chọn. Cám ơn bạn đã tham khảo bài viết của chúng tôi. Chúc bạn thành công!

Video liên quan

Chủ đề