Quan điểm chủ nghĩa duy vật về mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học

Với thế giới ngày càng đi lên hiện nay, có rất nhiều khái niệm liên quan đến triết học không khỏi làm chúng ta bỡ ngỡ và khó để hiểu đúng không? Vậy vấn đề cơ bản của triết học là gì? Nội dung của nó như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp mọi thắc mắc về triết học cho các bạn. Hãy cùng theo dõi nhé!

Vấn đề cơ bản của triết học là gì?

Triết học là gì?

Triết học là hệ thống những câu hỏi và những giải đáp của con người về thế giới xung quanh cũng như vai trò của con người ở trong thế giới ấy. Triết học lý giải những thắc mắc về sự tồn tại của con người và sự vật, cũng như giải thích được những yếu tố về ý thức và giá trị của con người.

Quan điểm chủ nghĩa duy vật về mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học

Triết học là gì? Các vấn đề cơ bản của triết học

Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học 

Xuyên suốt trong lịch sử phát triển của Triết học, vấn đề cơ bản nhất của triết học là tập trung lý giải sự tồn tại của ý thức và vật chất, đây được xem là vấn đề cơ bản nhất. Bởi vì muốn biết được sự khác nhau giữa các học thuyết triết học như thế nào thì điều trước tiên chúng ta cần phải làm rõ được việc nhận thức thế giới ở trong chúng ta và thế giới thực khác nhau như thế nào. 

Ngoài ra, nhờ vào sự giải đáp của vấn đề này mà chúng ta mới có thể lý giải được những thắc mắc còn lại về triết học trong cuộc sống của chúng ta như phân chia triết học ở quá khứ và ở hiện tại và các vấn đề khác.  Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

Mặt thứ nhất:

Trả lời cho câu hỏi: “Vật chất hay ý thức, giới tự nhiên hay tinh thần, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?”

Để giải đáp cho câu hỏi này, người ta đã đưa ra hai lý luận hoàn toàn trái ngược nhau: 

  • Một số ý kiến về triết học cho rằng yếu tố vật chất xuất hiện trước và ý thức xuất hiện sau cho nên đã hình thành một khái niệm riêng về chủ nghĩa duy vật
  • Tuy nhiên, những ý kiến khác lại cho rằng yếu tố ý thức xuất hiện trước và vật chất ra đời sau. Vì vậy mà đã hình thành nên những khái niệm về chủ nghĩa duy tâm.

Mặt thứ hai:

Trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới không?”

Ở câu hỏi này, dựa vào sự khác biệt ý kiến ở mặt thứ nhất  mà các nhà triết học cũng chia thành hai tư tưởng lý giải như sau:

  • Những người thiên về chủ nghĩa duy vật thì cho rằng con người có thể nhận thức được về thế giới xung quanh và sự nhận thức này phản ánh lại một cách khách quan về thế giới vào trong suy nghĩ của con người.
  • Những người thiên về chủ nghĩa duy tâm cũng cho rằng con người có thể nhận thức về thế giới. Tuy nhiên, sự nhận thức này là khả năng tự nhận thức của con người và nó có giới hạn.

Quan điểm chủ nghĩa duy vật về mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học

Vấn đề cơ bản của triết học là gì?

>>> Xem thêm: Hướng dẫn cách viết tiểu luận triết học chi tiết nhất

Nội dung vấn đề cơ bản của triết học

Vấn đề cơ bản của triết học lí luận theo chủ nghĩa duy vật

Theo các nhà triết học thiên về chủ nghĩa vật chất, họ quan điểm rằng vật chất xuất hiện trước yếu tố ý thức. Cho nên, họ tin rằng những gì đang tồn tại đều là vật chất và tất cả đều được tạo thành từ vật chất, những gì xảy ra trên thế giới này là thành quả của tự kết hợp giữa vật chất với nhau.

Các nhà triết học chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy vật đã hình thành và phát triển qua 3 hình thức đó chính là chủ nghĩa duy vật cổ đại (chủ nghĩa duy vật chất phác), siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. 

  • Chủ nghĩa duy vật chất phác : Đây là một loại hình thức chủ nghĩa duy vật hình thành từ thời kỳ cổ đại tại cả ba trung tâm văn hóa lớn là Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Có thể nói, chủ nghĩa duy vật cổ đại là kết quả nhận thức của các nhà Triết học duy vật thời cổ đại. Ở hình thức này, các lý luận triết học về thế giới cơ bản còn mang tính chất cảm tính, ngây thơ bởi những quan điểm cũng như lý giải của nhà triết học còn mang nặng tính trực quan.
  • Chủ nghĩa duy vật siêu hình (thế kỷ XVII - XVIII): Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức kế thừa và phát triển lên của chủ nghĩa duy vật chất phác. Ở thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được xây dựng nhằm chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo của giai cấp phong kiến.
  • Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Có thể nói, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức ưu việt nhất: kế thừa, phát huy những tinh hoa đồng thời khắc phục những hạn chế của các hình thức chủ nghĩa duy vật đi trước. Nó được xây dựng dựa trên cơ sở lý giải một cách khoa học về ý thức, vật chất và mối quan hệ của vật chất và ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng được các nhà triết học như C. Mác, Ăngghen đặt nền móng để Lenin phát triển cũng như hoàn thành nó. 

Quan điểm chủ nghĩa duy vật về mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học

3 Hình thức của chủ nghĩa duy vật

(Bên cạnh 3 hình thức chính, chủ nghĩa duy vật bao gồm thêm một số dạng như: Chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy vật kinh tế, đại biểu Buykhơnơ, Môlet Sốt…)

Mac-Lênin đã cho rằng, yếu tố chủ nghĩa duy vật đang là một yếu tố quyết định hướng đi cho nhận thức của con người về thế giới, giải thích về vai trò của con người ở trong thế giới. Những khía cạnh của triết học Mác-Lênin được xem là một cột mốc để từ đó nghiên cứu về con người cũng như lịch sử. Đây là một dấu mốc để đánh dấu về sự phát triển và tồn tại của con người, khẳng định rằng con người là những yếu tố làm nên lịch sử. Triết học Mác-Lênin hoàn thiện đã góp phần làm rõ nhận thức về triết học và yếu tố khoa học, hai yếu tố này có mối liên hệ với nhau, triết học thì tạo ra những cách thức đúng đắn để cho khoa học ngày càng đi lên và ngược lại.

Vấn đề cơ bản của triết học lí luận theo chủ nghĩa duy tâm 

Ngược lại với quan điểm chủ nghĩa duy vật, các nhà triết học thiên về chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng, ý thức là yếu tố xuất hiện trước và nó mang tính quyết định cho yếu tố vật chất. Theo chủ nghĩa duy tâm, các nhà triết học chỉ ra rằng nó được ra đời từ sự nhận thức, họ cho rằng giữa chủ nghĩa duy tâm và sự ra đời của tôn giáo có mối liên kết chặt chẽ với nhau. 

Chủ nghĩa duy tâm được chia thành hai giai đoạn khác nhau đó là chủ nghĩa duy tâm mang tính chủ quan và khách quan.

  • Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì cho rằng những chuyện xảy ra trên thế giới đều phụ thuộc vào nhận thức và cảm  nhận của con người. Cụ thể là một nhà triết học người Anh tên Gioócgiơ Béccli đã chỉ ra rằng vật chất trên thế giới này nó tồn tại một cách riêng lẻ và việc đưa ra những lý giải về vật chất là gì đều không  có lợi ích gì bởi vì đơn giản nó chỉ là một cái tên gọi. Ông cho rằng, Những vật chất tồn tại trong cuộc sống của chúng ta là hoàn toàn do chúng ta cảm giác, ông lấy ví dụ điển hình như, chúng ta nhìn thấy chiếc bàn, chiếc ghế có hình dạng gì, màu sắc gì sở dĩ là do những nhận thức về cảm giác của chúng ta mà thôi chứ thực ra chúng không tồn tại.  
  • Chủ nghĩa duy tâm khách quan lại cho rằng ý thức khách quan xuất hiện trước và nó tồn tại một cách độc lập. Theo nhà triết học Platon, ông quan niệm rằng các sự vật xung quanh chúng ta là một vòng tuần hoàn, chúng sinh sống rồi mất đi và cứ thế, không mang tính chân thực. mặt khác ông cho rằng tồn tại một thế giới mang tính không cảm tính, nó mang tính chân thực.

Trên đây là một số thông tin về khái niệm, nội dung vấn đề cơ bản của triết học là gì?. Hy vọng bài viết này sẽ giúp ích được cho các bạn trong quá trình học tập cũng như làm việc.

(Last Updated On: 10/08/2021 By Lytuong.net)

Những vấn đề cơ bản của triết học là gì? Làm rõ nội dung vấn đề cơ bản của triết học.

Vấn đề cơ bản của triết học

Trong tác phẩm “Lút vích Phoiơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, nhất là triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi, giữa ý thức hay vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào?

Mặt thứ hai trả lời câu hỏi, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học: Bởi vì, vật chất và

ý thức là hai phạm trù rộng lớn nhất của triết học và đồng thời nó cũng là nội dung cơ bản nhất được xác định trong đối tượng nghiên cứu của triết học. Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là một tiêu chuẩn để phân biệt sự giống nhau, khác nhau giữa các trường phái triết học, giữa triết học và khoa học. Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận chung về thế giới quan và phương pháp luận của triết học.

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm về vấn đề cơ bản

Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở phân định các trường phái triết học. Có ba cách giải quyết:

Một là, vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất quyết định ý thức. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức.

Hai là, ý thức có trước, vật có sau, ý thức quyết định vật chất. Cách giải quyết này thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, tính thứ hai của vật chất.

Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không nằm trong quan hệ sản sinh, cũng không nằm trong quan hệ quyết định nhau.

Cách giải quyết thứ nhất và thứ hai tuy đối lập nhau về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ, chúng đều thừa nhận tính thứ nhất của một nguyên thể(hoặc vật chất, hoặc ý thức) Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên.

Chủ nghĩa duy vật có ba hình thức cơ bản:

– Triết học duy vật cổ đại (duy vật chất phác – ngây thơ)

Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Aán Độ, Trung Hoa, Hylạp. Bởi vì, xét về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng xét về mặt phương pháp luận thì chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học. Quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật… vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác, v.v…

Aênghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”, hoặc là quan điểm về nguyên tử của Démocrite, v.v…

Tóm lại, Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế.

– Chủ nghĩa duy vật siêu hình

Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy vật, nhưng xét về mặt phương pháp luận lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên (phương pháp thực nghiệm)của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý. Cho nên, nó còn được gọi là phép siêu hình “Méthaphisiqie” – “Méthode Dialectique”

Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao ở thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sực tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhìn nhận thế giới như một tổng thể các sự vật, hiện tượng tạo nên trong trạng thái biệt lâp, tĩnh tại.

Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học còn là một bộ phận trực tiếp của triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu các ngành hoa học cụ thể tách ra khỏi triết học trở thành các ngành khoa học cụ thể, độc lập; dùng phương pháp nghiên cứu thật chi tiết nhằm phát hiện các thuộc tính, những quy luật của vật chất như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu, v.v… Từ đó làm xuất hiện phương pháp mới trong khoa học tự nhiên – phương pháp thực nghiệm và cũng trên cở đó xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Phương pháp này xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tĩnh tại, không vận động, không biến đổi, không phát triển, v.v… đó là hệ quả của điều kiện lịch sử phát triển của khoa học ở thế kỷ XVII – XVIII.

Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Pháp với những quan điểm của La Mettrie, Diderot Denis, Holbach Paul Henri, Helvétus Claude Adrie – chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII,v.v… chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.

– Chủ nghĩa duy vật Biện chứng

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác – Aênghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học.

Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật đều thừa nhận vật chất là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định đối với ý thức còn ý thức là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào vật chất. Và giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học thì chủ nghĩa duy vật khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới.

Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức:

– Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cơ sở hết thảy mọi sự vật tồn tại là cảm giác, biểu tượng và ý thức của cá nhân, của chủ thể. Tư tưởng tiêu biểu của trường phái này là Berkeley (Thời cận đại) với quan điểm không thừa nhận ở bên ngoài cảm giác vẫn tồn tại những sự vật, hiện tượng thực tại, độc lập với con người, tác động vào giác quan của con người hình thành cảm giác, nhận thức, v…

– Chủ nghĩa duy tâm khách quan thì cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại không phải là ý thức cá nhân, chủ quan là một thứ ý thức “khách quan” và thần bí nào đó tồn tại thuần túy trừu tượng có trước và quyết định tất cả, kể cả con người và ý thức của con người. Tiêu biểu cho những quan điểm này phải kể đến Platon (Hy lạp cổ đại) và Héghel (Triết học Cổ điển Đức).

Như vậy, sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan chủ yếu thể hiện trong quan niệm về ý thức, nhưng họ lại giống nhau về mặt nguyên tắc khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.

Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học thì họ đều thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, là cái có trước, cái quyết định vật chất còn vật chất là tính thứ hai, cái có sau, cái phụ thuộc vào ý thức.

Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy tâm không phủ nhận khả năng nhận thức của con người nhưng họ coi khả năng đó phụ thuộc vào chính bản thân ý thức (cảm giác chủ quan thuần túy) hoặc lực lượng siêu nhiên (ý niệm – ý niệm tuyệt đối).

Như vậy, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là quan điểm nhất nguyên luận. Bởi vì, mỗi một trường phái đều xuất phát từ quan điểm duy nhất là thừa nhận vật chất, hoặc ý thức là cái có trước cái quyết định, làm nguyên lý xuất phát với tính cách là cơ sở lý luận chung cho hệ thống lý luận triết học của mình. Trong lịch sử triết học còn có trường phái Nhị nguyên luận, Thuyết không thể biết và triết học Tôn giáo; nhưng chủ yếu vẫn là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.