Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam là gì

Chức danh Pháp chủ dùng để gọi người lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo, là người đứng đầu Hội đồng Chứng minh, thay mặt Hội đồng Chứng minh ban hành các Giáo chỉ, các văn bản quan trọng nhất, đại diện cho Giáo hội trong các hoạt động đối ngoại.

Pháp chủ (chữ Hán:法主) danh xưng đầy đủ là: Pháp Chủ Hội đồng Chứng Minh (chữ Hán:越南佛教教會證明理事會法主) hay Thiền gia Pháp chủ (chữ Hán:禪家法主) là danh hiệu cao nhất đứng đầu một Giáo hội Phật giáo.

Hiện nay chức danh Pháp chủ dùng để gọi người lãnh đạo cao nhất của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Pháp chủ là người đứng đầu Hội đồng Chứng minh, thay mặt Hội đồng Chứng minh ban hành các Giáo chỉ, các văn bản quan trọng nhất, đại diện cho Giáo hội trong các hoạt động đối ngoại. Ngôi vị Pháp chủ chỉ do Đại hội Phật giáo toàn quốc suy cử một vị Hòa thượng, và tại vị đến suốt đời. Trên thực tế, ngôi vị này chỉ có vai trò đại diện chứ không trực tiếp tham gia điều hành, và không có thực quyền quyết định.

Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam là gì

Làm theo lời dạy của đức Đệ Nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Tại Việt Nam, từ khi thành lập năm 1981 đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có ba vị Pháp chủ, đó là: Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1897 - 1993), Đại lão hòa thượng Thích Tâm Tịch (1915 - 2005), Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917). Trong thời gian 2005 - 2007, do Đệ nhị Pháp chủ Thích Tâm Tịch đã viên tịch mà chưa tổ chức Đại hội Phật giáo, nên chức danh Pháp chủ khuyết chỗ. Đại hội Phật giáo Toàn quốc khóa 6 vào tháng 11 năm 2007 đã suy cử Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ lên ngôi vị Pháp chủ. Mặc dù ở ngôi vị Pháp chủ nhưng Hòa thượng Thích Phổ Tuệ không trú tại Trụ sở Giáo hội ở Hà Nội, mà vẫn trụ trì ở chùa Viên Minh (chùa Ráng), Hà Tây.

Trong thời kì chấn hưng Phật giáo, tại miền Bắc đã có ba vị được tôn làm Pháp chủ, đứng đầu Hội Phật giáo Bắc kỳ sau đổi là Giáo hội Tăng già Bắc Việt, đó là: Thiền gia Pháp chủ Hòa thượng Thích Thanh Hanh (1934 - 1936); Thiền gia Pháp chủ Hoà thượng Thích Thanh Tường (1936): Sư thế danh là Đinh Xuân Lạc (1858-1936), trụ trì chùa Vũ Thạch quận Hoàn Kiếm và chùa Trầm huyện Chương Mĩ, Hà Nội; Thiền gia Pháp chủ Hòa thượng Thích Mật Ứng (1951 - 1952).

39 năm Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Những tấm gương gắn kết Đạo và Đời

Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam là gì
Đức Đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam: Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ

Hiện nay, Đức Đệ tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (sinh năm 1917), quê Ngài ở xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI (2007), HT. Thích Phổ Tuệ được Đại hội suy tôn ngôi vị Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trở thành Pháp chủ thứ ba của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Sau Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận và Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Tịch). Ngày 24 tháng 11 năm 2012,tại  Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VII đã thống nhất tái suy tôn Đại Trưởng lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ giữ ngôi vị Thiền gia Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Một số báo chí Phật giáo Việt Nam tiêu biểu

Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam là gì

Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo là ai?

Phó Pháp chủ là một chức vụ giáo phẩm cao cấp chỉ đứng sau Pháp chủ, thường dành cho các Đại Lão Hòa thượng có tuổi Hạ rất cao trong Hội đồng Chứng Minh, cũng có trường hợp không trong hội đồng chứng minh nhưng được bổ sung. Các Vị này thường được thỉnh đi chứng minh, tham dự các buổi lễ quan trọng, các sự kiện lớn, thường được ngồi tại vị trí cao nhất của Lễ Đài.

Trong các Phó Pháp chủ có một vị gọi là Phó Pháp chủ Kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng Minh, thường thì sau khi Pháp chủ viên tịch thì vị Phó Pháp chủ đứng đầu này sẽ đăng quang lên ngôi Pháp chủ ở nhiệm kỳ sau. Đây là chức vụ mang tính Kế cận cho chức Pháp chủ.

Cả Đại hội đã vô cùng xúc động và vui sướng cử hành nghi lễ suy tôn, trang nghiêm lắng nghe Đạo từ của Ngài, kính cẩn đồng thanh niệm “Y giáo phụng hành” 3 lần và hân hoan vỗ tay kéo dài chào mừng Đức Pháp chủ lên ngôi.

Đức Đệ Tam Pháp chủ Thích Phổ Tuệ đản sinh năm Đinh Tỵ – 1917, là con trai thứ 2 trong một gia đình nông dân có 3 anh em. Trên Ngài là một anh, dưới Ngài là một em gái. Thân phụ và Thân mẫu của Ngài là những Phật tử thuần thành.

Đức Đệ tam Pháp chủ GHPGVN Thích Phổ Tuệ. Ảnh: Trọng Hoàng

Sinh quán của Ngài tại làng Phùng Thiện (nay là thôn 3) xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh tỉnh Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Ninh Bình).

Ngài là đồng tử xuất gia từ năm 5 tuổi, 18 tuổi thụ Sa di giới, 20 tuổi thụ Đại giới Tỷ khiêu và Bồ tát giới tại Giới đàn Viên Minh với các Sư Tổ Tế Xuyên, Đa Bảo và Viên Minh…

Ngài đã đi Tham học hầu khắp các Tổ miền Bắc đương thời ở các Tổ Đình: Tế Xuyên, Đào Xuyên, Bồ Đề, Đa Bảo, Quán Sứ, Vĩnh Nghiêm, Hương Tích, v,v.

Từ năm 1936, Ngài chính thức là đệ tử của Tổ Quảng Tốn – Đệ nhị Tổ của Tổ đình Viên Minh – Chùa Ráng tại xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Năm 1961 Tổ Quảng Tốn viên tịch, Ngài kế tục trụ trì Tổ đình này, là thế hệ thứ ba của chùa Ráng, sau Đệ nhất Tổ Nguyên Uẩn, Đệ nhị Tổ Quảng Tốn và chính thức là người truyền thừa của Sơn môn Đa Bảo và Viên minh Pháp hội nổi tiếng. Đã hơn 70 năm nay Ngài an nhiên trụ xứ duy nhất ở chùa Ráng.

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ – Ảnh: Xuân Loan

Năm 1987, cố Hòa thượng Thiện Siêu, Kim Cương Tử, Tâm Thông…được ủy quyền của Đức Đệ nhất Pháp chủ Thích Đức Nhuận cùng Đại diện Ban Tôn giáo Chính phủ đã về chùa Ráng chính thức mời Ngài lên Thủ đô tham gia và giữ vai trò chính trong việc dịch Đại Luật, Đại Tạng Kinh và biên soạn Đại từ điển Phật học Việt Nam, tham gia Tạp chí Nghiên cứu Phật học…

Đức Pháp chủ tại Đại hội PGVN lần VI – Ảnh: Xuân Loan

Năm 1993, Ngài được thỉnh viết Lời Truy niệm tại Tang lễ Đức Đệ Nhất Pháp chủ.

Năm 2005, Ngài thực chất Chủ trì Tang lễ Đức Đệ nhị Pháp chủ và có viết một bài truy niệm quan trọng.

Trước Đại hội VI, Ngài là Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học, Trưởng Ban Trị sự kiêm Tăng sự Tỉnh hội Hà Tây, Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Phó Chủ tịch kiêm Phó ban Tăng sự TWGH, Phó Pháp chủ kiêm Chánh thư ký HĐCM GHPGVN.

Ngài là Đường chủ các trường hạ của Hà Tây trong nhiều năm nay, là giảng sư của Học viện PGVN tại Hà Nội, trường Trung cấp Phật giáo Hà Tây. Ngài luôn tuyên dương chính Pháp ở mọi nơi, mọi lúc khi có thiện duyên.

Ngài đã tham gia trước tác, dịch thuật, hiệu đính nhiều công trình Phật học như Đại Luật, Đại Tạng kinh Việt Nam, Đại từ điển Phật học, Bát Nhã Dư Âm, Đề cương kinh Pháp hoa, Phật học là tuệ học, Phật Tổ tam kinh, kinh Hoa Nghiêm, Quy nguyên trực chỉ tăng bổ,v,v, và viết hàng chục bài báo và tạp chí về Phật học.

Đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ – Ảnh: Xuân Loan

Ngài đã tham gia hàng chục Giới đàn thụ giới cho hàng nghìn giới tử xuất gia và hàng vạn giới tử tại gia.

Cả cuộc đời tu hành gần 100 năm của Ngài là ở nơi thôn dã, trực tiếp cày cấy chung thân, buông tay cày cầm tay bút. Sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Đến năm 80 tuổi Ngài mới thật sự thôi cày ruộng, nhưng vẫn liên tục làm vườn, làm việc nhà không ngừng nghỉ cho đến nay.

Ngài vẫn tự trào mình là Nông Tăng.

Kính cẩn lược soạn

Huệ Minh

Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, đời trụ trì thứ ba của chùa Giáng, sinh năm Đinh Tỵ (1917), thuộc sơn môn Đa Bảo, một trong ba sơn môn nổi tiếng miền Bắc (nhất Đọi, nhì Đa, thứ ba Khê Hồi), là đệ tử của Cụ Thích Quảng Tốn. Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, Hòa thượng không theo phong trào đi Nhật du học như Hòa thượng Thích Thanh Kiểm (sau này là trụ trì Tổ đình Vĩnh Nghiêm – TP. Hồ Chí Minh) mà hồi cư về Chùa và tiếp tục duy trì, tiếp nối mệnh mạch Phật pháp ở vùng quê Quang Lãng.

Hòa thượng sống tinh cần, miệt mài, nhất là công việc đọc sách, nghiên cứu, dịch thuật, thậm chí đến mức quên ăn quên ngủ. Hòa thượng thường đi ngủ sớm, khoảng hơn 7 giờ tối. Đến 11, 12 giờ đêm, Hòa thượng dậy chong đèn đọc sách, dịch kinh, “trông” chùa đến 4 giờ sáng rồi đánh chuông khai tĩnh cho đại chúng là học Tăng đến từ Hưng Yên, Hà Nam, Hà Tây.

Hòa thượng rất tâm huyết với sự nghiệp giáo dục Tăng Ni, hết lòng vì các Tăng sinh trẻ. Hòa thượng thường dạy Luật, dạy Duy thức học, Nhị khóa hiệp giải cho Tăng sinh trường Trung cấp Phật học Hà Tây, giảng dạy kinh Lăng Nghiêm cho Tăng sinh Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội khóa II. Mặc dù tuổi ngoài 85 nhưng Hòa thượng vẫn giảng bài với giọng nói sang sảng tại Trường Trung cấp Phật học và các trường hạ của tỉnh Hà Tây.

Bên cạnh việc giáo dục Tăng Ni, Hòa thượng còn đặc biệt chú tâm vào công tác dịch thuật. Trong những năm cuối thập niên 80, đầu 90, Hòa thượng tham gia Hội đồng phiên dịch Từ điển Phật học. Đích thân Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh (Đài Loan) đã về tận chùa gặp trực tiếp và mời Hòa thượng tham gia hiệu đính kinh Hoa nghiêm. Các Thầy ở chùa kể rằng, hàng đêm Hòa thượng thắp nến và cặm cụi hiệu đính, đối chiếu giữa bản chữ Hán và bản dịch Việt. Hòa thượng đã dịch và xuất bản kinh Bách Dụ, Phật Tổ tam kinh, Bát Nhã dư âm, Đề cương kinh Pháp hoa…

Trong cách nhìn của bà con địa phương, Hòa thượng không chỉ là một vị cao Tăng thạc đức mà còn là một người nông dân sống cần cù, giản dị, chất phác. Hòa thượng vẫn thường giúp bà con nông dân việc đồng áng, chăm lo đời sống tinh thần mọi người, dù việc lớn hay nhỏ. 

Đối với hàng Phật tử, Hòa thượng rất quan tâm và bố thí pháp bất cứ lúc nào, không kể lớn bé, sang hèn, quen hay lạ. Hòa thượng thường nói “pháp vũ vô cao hạ” (mưa pháp không cao thấp). Vì vây rất đông Phật tử về chùa nghe Hòa thượng giảng pháp, bất kể đường về chùa khá xấu, bụi, lại khó tìm. Hòa thượng thường đưa thơ vào các bài giảng pháp, trích dẫn những thành ngữ, những câu nói cô đọng để dễ dàng và hấp dẫn cho Phật tử tiếp thu. ..

Trọng Hoàng

(Trích bài viết CLB Thanh niên PTVN và Web Phật tử Việt Nam đỉnh lễ và vấn an HT. Thích Phổ Tuệ)

Xem thêm: