Cách mạng giải phóng dân tộc diễn ra ở đấu

Mục lục

Bối cảnhSửa đổi

Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Quân Pháp sau đó mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn miền Nam Việt Nam. Năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ, tạo thành 1 lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam Kỳ) ở Nam Kỳ Lục tỉnh.

Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ 1873-1886, Pháp dần xâm chiếm nốt những phần còn lại của Đại Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Bắc Kỳ với lực lượng chủ chiến triều Nguyễn do Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Hoàng Kế Viêm lãnh đạo và quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa lương-giáo, người Việt - người Hoa - phương Tây... Triều đình Huế không thể kiểm soát nổi tình hình. Nhà Thanh của Trung Quốc đem đại quân vào miền Bắc Việt Nam trên danh nghĩa giúp "chư hầu" nhà Nguyễn kháng Pháp, chiến tranh Pháp-Thanh bùng nổ trên chiến trường miền Bắc. Cuối cùng thì liên quân Thanh-Nguyễn đã thất bại và quân đội Pháp đã giành chiến thắng.

Quân nhà Nguyễn tuy có quân Thanh và quân Cờ đen trợ chiến vẫn bị thất bại. Sau khi giành quyền làm chủ miền Bắc Việt Nam, chính phủ Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc Kỳ (Tonkin) và Trung Kỳ (Annam). Sau đó họ tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho đến Bảo Đại.

Diễn biến các phong tràoSửa đổi

Phong trào Cần VươngSửa đổi

Bài chi tiết: Phong trào Cần Vương

Sau khi nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Thân 1884, Đại Nam chính thức bị mất đi độc lập, bị chia cắt thành 3 miền và trở thành thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á. Nhưng phái chủ chiến trong triều đình và các địa phương, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vẫn mưu khôi phục, xây dựng lực lượng, đưa Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên ngôi vua (vua Hàm Nghi). Những hành động của phái chủ chiến khiến cho Pháp lo lắng và tìm cách tiêu diệt phái này.

Trước sự uy hiếp đó, Tôn Thất Thuyết quyết định ra tay trước giành thế chủ động. Đêm mùng 4/7/1885, quân Phấn nghĩa của Tôn Thất Thuyết mở trận phản công ở Kinh thành Huế nhưng sau đó bị quân Pháp đẩy lùi, triều đình Hàm Nghi lui về Quảng Trị, rồi Hà Tĩnh. Ngày 13/7, Chiếu Cần Vương được ban ra, phái chủ chiến và các thổ hào ở các địa phương khởi nghĩa hưởng ứng, tạo nên phong trào Cần Vương.

Các cuộc khởi nghĩa nổ ra rộng khắp và tập trung nhất ở các tỉnh đồng bằng nhưng cũng vì đó mà quân đội Pháp có thể dùng những ưu thế về hỏa lực để đàn áp các nghĩa quân. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thời kỳ này gồm có: khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Nghệ An, khởi nghĩa Bình Định, khởi nghĩa Thái Bình, Nam Định, hoạt động của Nghĩa hội Quảng Nam...

Các thủ lĩnh tiêu biểu thời kỳ này gồm có: Mai Xuân Thưởng, Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Duy Hiệu, Trần Văn Dư, Phan Thanh Phiến, Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Tân, Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Xuân Ôn, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Cầm Bá Thước, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Đức Ngữ, Hoàng Văn Thuý, Đèo Văn Thanh, Đèo Văn Trị, Cầm Văn Toa, Nguyễn Văn Giáp, Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Đình Kinh...

Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt, phong trào bị suy yếu. Các lực lượng nghĩa quân bị đẩy lùi về các khu vực thượng du, trung du hay vùng lau sậy rậm rạp như Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân, Thanh Sơn của Đốc Ngữ, Rừng Già của Đề Kiều, Bãi Sậy, Hai Sông của Nguyễn Thiện Thuật, Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng...

Tại Hùng Lĩnh, nghĩa quân bị đẩy lùi về miền tây Thanh Hoá. Năm 1892, Tống Duy Tân bị bắt, Cao Điển trốn ra Bắc, khởi nghĩa tan rã.

Tại Bãi Sậy, tháng 7/1889, Nguyễn Thiện Thuật lánh sang Trung Quốc, các căn cứ Bãi Sậy, Hai Sông lần lượt bị vỡ. Tới năm 1892 thì khởi nghĩa Bãi Sậy tan rã.

Tại vùng núi phía Bắc, khi các thủ lĩnh Đốc Ngữ bị sát hại (1892), Đề Kiều ra hàng, phong trào suy yếu và tan rã.

Sau năm 1892, phong trào giờ chỉ còn duy nhất nghĩa quân Hương Khê của Phan Đình Phùng. Cuối năm 1895, Phan Đình Phùng trúng đạn tử thương. Đến đầu năm 1896, quân Pháp và Nguyễn Thân đàn áp xong khởi nghĩa Hương Khê.

Phong trào Cần Vương là phong trào cuối cùng của ý thức hệ phong kiến trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Ngoài ra, thời kỳ này còn có khởi nghĩa Yên Thế. Mặc dù thủ lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa này là Hoàng Hoa Thám có liên quan tới phong trào Cần Vương. Nhưng cuộc khởi nghĩa vẫn được xem là khởi nghĩa nông dân tự phát. Cuộc khởi nghĩa này kéo dài tới năm 1913.

Phong trào trước Thế chiến ISửa đổi

Bài chi tiết: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, và Đông Kinh nghĩa thục

Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu tổ chức phong trào Đông Du nhằm mục đích kêu gọi thanh niên người Việt ra ngoại quốc, chủ yếu là Nhật Bản, để học tập và chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ hồi hương đấu tranh giành độc lập. Phan Châu Trinh đề xuất tư tưởng dân quyền, "tự lực khai hóa", với khẩu hiệu "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" để giải phóng dân tộc.

Năm 1904, Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội tại Quảng Nam, lấy đó làm lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào Đông Du. Tổ chức này hoạt động tuyên truyền chống Pháp và tồn tại cho đến năm 1912 thì giải tán.

Năm 1906, Phan Châu Trinh đề xướng phong trào Duy Tân, phong trào phát triển mạnh và 2 năm sau đã làm bùng lên phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ 1908.

Năm 1907, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ và những người cùng chí hướng đã lập ra phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (東京義塾) nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam. Mục đích của phong trào là nâng cao dân trí trong các tầng lớp người Việt. Ban tổ chức đã mở những lớp dạy học miễn phí và tổ chức những cuộc diễn thuyết để trao đổi các tư tưởng tiến bộ, mới mẻ, văn minh, và cổ động trong dân chúng.

Năm 1908, các bồi bếp và lính khố xanh, lính khố đỏ trong quân đội Pháp đóng ở thành Hà Nội đã làm nên vụ Hà Thành đầu độc nhằm mưu sát các sĩ quan, thượng cấp người da trắng và gây binh biến. Kế hoạch đầu độc lính Pháp này có sự tiếp ứng và chỉ đạo từ bên ngoài của nghĩa quân Yên Thế, cùng với sự tham gia của Phan Bội Châu trong việc vạch kế hoạch để tạo cuộc khởi nghĩa. Cuộc binh biến đã bị đàn áp và thất bại.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành xuất dương đến Pháp tìm hiểu về Pháp và các nước phương Tây, để tìm ra biện pháp thích hợp nhằm giải phóng dân tộc Việt Nam.

Năm 1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang phục hội để đánh Pháp bằng biện pháp vũ lực, và đã tạo ra nhiều tiếng vang lớn.

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhấtSửa đổi

Trong những năm 1914-1918 là thời kỳ Việt Nam Quang phục Hội hoạt động mạnh ở trong nước tuy Phan Bội Châu lúc này đang bị Trung Hoa Dân quốc bắt giam.

Chi bộ Việt Nam Quang phục hội ở Vân Nam do Đỗ Chân Thiết đứng đầu tổ chức âm mưu đánh úp Hà Nội nhưng không thành. Cuộc vây bắt của Pháp diễn ra từ đầu tháng 9 - cuối tháng 10 năm 1914. Đỗ Chân Thiết và 58 người khác bị xử tử.

Sau đó các Chi bộ ở trong nước mở các cuộc tấn công, tập kích vào các căn cứ của Pháp như tỉnh lị Phú Thọ (6/1/1915), Nho Quan, Lục Nam (10/1914), Bát Xát (8/8/1916), Đồng Văn (3/3/1917)... nhưng cuối cùng đều thất bại.

Đáng chú ý là kế hoạch đánh vào Móng Cái, Lạng Sơn, Hà Khẩu của các lãnh đạo Quang Phục hội vào đầu năm 1915. Ba cánh quân lần lượt do Nguyễn Mạnh Hiếu, Nguyễn Thượng Hiền và Hoàng Trọng Mậu chỉ huy. Nhưng do bất đồng ý kiến, nên chỉ có kế hoạch ở Lạng Sơn tiến hành một phần nhưng thất bại ở Tà Lùng.

Từ Thế chiến I cho đến trước 1925Sửa đổi

Năm 1923, tại Quảng Châu, Trung Quốc, do bất đồng với tư tưởng bảo thủ của nhóm cao niên trong Việt Nam Quang phục Hội, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ đã tách ra riêng và thành lập Tân Việt Thanh niên Đoàn (Tâm Tâm Xã).

Để thức tỉnh đồng bào và gây thanh thế, ngày 19/6/1924, Phạm Hồng Thái của Tân Việt Thanh niên Đoàn đã mưu sát toàn quyền Đông Dương Merlin tại khách sạn Victoria, Quảng Châu, Trung Quốc. Phạm Hồng Thái đã hy sinh và sự kiện này đã gây chấn động dư luận trong và ngoài Việt Nam.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu và thuyết phục được những thành viên ưu tú của Tân Việt Thanh niên Đoàn tham gia thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và họ đã trở thành những hạt nhân của tổ chức này. Tổ chức này cũng là 1 trong những tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tân Việt Thanh niên Đoàn giải tán vào năm 1925 và chuyển thành Thanh niên Cộng sản Đoàn.

Phong trào cách mạng 1925-1930Sửa đổi

Bài chi tiết: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng, và Việt Nam Quốc dân Đảng

Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc cùng với 9 cựu thành viên ưu tú của Tâm Tâm Xã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc là người lãnh đạo Hội. Các hội viên chủ chốt gồm có: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh, Trương Vân Lĩnh, Lưu Quốc Long, Lâm Đức Thụ... Trụ sở của Hội đặt tại Quảng Châu, Trung Quốc.

Cũng trong năm 1925, một số tù chính trị cũ ở Trung Kỳ như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên,... một số giáo viên như Trần Mộng Bạch, Trần Phú, Hà Huy Tập,... và một số nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... đã lập ra Hội Phục Việt sau đổi tên thành Hội Hưng Nam. Đến năm 1926 đổi thành Việt Nam Cách mạng Đảng. Đến tháng 7/1927 lại đổi thành Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội. Hội đã nhiều lần họp bàn với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhưng thất bại. Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội họp đại hội tại Huế quyết định lấy tên là Tân Việt Cách mạng Đảng (Tân Việt).

Đảng Tân Việt hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh nên các thành viên chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm Đường Kách Mệnh của ông được coi là "kim chỉ nam" của các thành viên Đảng Tân Việt. Một số đảng viên trẻ gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, một số đảng viên còn lại thì ở lại tích cực chuẩn bị thành lập 1 chính đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, còn một số khác thì chủ trương thành lập Liên đoàn Quốc gia.

Năm 1927, Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, Hồ Văn Mịch, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc... bí mật thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1929, đảng này thực hiện vụ ám sát Bazin, làm 1 thông điệp chính trị gửi đến toàn quyền Đông Dương, cảnh cáo chính sách bất công thuộc địa. Chủ trương hoạt động của Quốc dân đảng đề ra có 2 phần: "Giai đoạn phá hoại" và "Giai đoạn kiến thiết". Vụ ám sát Bazin thuộc giai đoạn đầu. Năm 1929, sau những tổn thất nặng nề do chính quyền thực dân gây ra, một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương phản công bằng 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang, chứ không thể ngồi khoanh tay chờ bị tiêu diệt.

Năm 1930, Việt Nam Quốc dân đảng quyết định tiến hành khởi nghĩa. Khởi nghĩa bắt đầu ngày 9/2, nơi nổ súng đầu tiên là Yên Bái. Tại Yên Bái, Phú Thọ, quân đội Việt Nam Quốc dân đảng tạm chiếm một số nơi nhưng không giữ được. Tại Hà Nội chỉ kịp gây ra một số vụ nổ bom ở Sở sen đầm, Sở mật thám. Tại Kiến An, Hải Dương, mãi đến ngày 15/2 mới nổi dậy, chiếm được Vĩnh Bảo (Hải Dương) và Phụ Dực (Thái Bình), nhưng không đánh chiếm được Phả Lại, Hải Dương. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại và tan rã. Đây là phong trào cuối cùng của ý thức hệ tư sản trong phong trào cách mạng chống Pháp ở Việt Nam. Từ đây, ngọn cờ cách mạng chống Pháp và vai trò lãnh đạo được giao vào tay giai cấp công nhân và các phong trào vô sản.

Phong trào Xô Viết Nghệ TĩnhSửa đổi

Bài chi tiết: Xô viết Nghệ Tĩnh

Năm 1930, ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc đã hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (hậu thân của Tân Việt Cách mạng Đảng), và An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đó đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, phong trào cách mạng ở Việt Nam với hạt nhân là lực lượng công nhân và nông dân đã chuyển biến mạnh mẽ. Đến tháng 9/1930, đã có hàng loạt cuộc đấu tranh quy mô lớn. Nông dân Nghệ-Tĩnh đã vũ trang tấn công vào bộ máy cai trị của chế độ thuộc địa, tiêu biểu như: Biểu tình của hơn 3.000 nông dân huyện Nam Đàn (30/8/1930), của gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương (1/9/1930), của hơn 3.000 nông dân huyện Can Lộc (7/9/1930)..., đỉnh cao là cuộc biểu tình đẫm máu ngày 12/9/1930 của khoảng 8.000 nông dân phủ Hưng Nguyên kéo đến phủ lỵ với những khẩu hiệu: "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! Đả đảo phong kiến! Bỏ sưu thuế, chia ruộng đất". Thực dân Pháp đã dùng máy bay ném bom, giết chết 217 người.

Sự kiện này đã thổi bùng thêm ngọn lửa đấu tranh lan rộng khắp các địa phương trong tỉnh, kéo dài cho tới năm 1931, dẫn tới sự tan rã bộ máy chính quyền thực dân, phong kiến và hình thành các Xô viết. Tại Nghệ An, tổ chức Nông hội với các hình thức Xô viết đã nắm chính quyền ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, 1 phần Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu.

Tại Hà Tĩnh, các huyện Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thọ có 172 xã thành lập Xô viết. Trong suốt thời gian tồn tại, các Xô viết đã đóng chức năng là chính quyền chuyên chính công nông, các đội "Tự vệ Đỏ" được lập ra để chống Pháp và trấn áp những người phản động. Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã giành được sự ủng hộ dưới nhiều hình thức của các địa phương, đồng thời cũng kích thích phong trào cách mạng trên toàn quốc dâng cao.

Khí thế của cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh nhanh chóng lan rộng trong cả nước. Chỉ trong tháng 9-10/1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh. Sự xuất hiện các Xô viết làm chức năng chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo đã phát triển ở nhiều vùng rộng lớn trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Cuối cùng, do thực lực yếu, thực dân Pháp xua quân tấn công, các Xô viết đều bị đàn áp, khủng bố và tan rã.[1]

Phong trào dân chủSửa đổi

Bài chi tiết: Phong trào Dân chủ Đông Dương (1936-1939) và Mặt trận Dân chủ Đông Dương

Thập niên 1930, thế giới tư bản có sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít mà trục chính của nó là trục Bá Linh - La Mã - Đông Kinh, nguy cơ 1 cuộc chiến tranh thế giới đang tới gần. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tại Moskva, Liên Xô với sự có mặt của 65 đoàn đại biểu. Đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu, lần đầu tiên tham dự Đại hội.

Đại hội đó quyết định những vấn đề quan trọng sau đây:

  • Xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít.
  • Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình, giành tự do, dân chủ.
  • Xây dựng mặt trận thống nhất, đoàn kết rộng rãi.

Các Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Tây Ban Nha, Đảng Cộng sản Trung Quốc làm nòng cốt trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi dân chủ, tự do.

Trước sức ép của Đảng Cộng sản Pháp và phong trào cánh tả Pháp, nhà cầm quyền Pháp đã phải thi hành một số thay đổi về chính sách. Với các nước thuộc địa, chính quyền Pháp đã có 3 quyết định rất quan trọng: Trả lại tự do cho tù chính trị, thành lập ủy ban điều tra tình hình các thuộc địa, và thi hành một số cải cách xã hội.

Cuối thập niên 1930, tình hình chính trị - xã hội - kinh tế ở Đông Dương rất rối loạn, đời sống nhân dân rất khó khăn. Công nhân bị thất nghiệp, lương giảm. Nông dân không đủ ruộng cày, chịu mức địa tô cao và bóc lột của địa chủ. Tư sản dân tộc ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép. Tiểu tư sản trí thức bị thất nghiệp, lương thấp. Các tầng lớp lao động chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ.

Trước tình hình thế giới và Việt Nam có nhiều biến đổi, tháng 7/1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong chủ trì, đã họp tại Hồng Kông để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh mới, xác định mục tiêu chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đấu tranh chống chế độ thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3/1938 được đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương).

Mở đầu là phong trào phong trào Đông Dương Đại hội, từ 1 sáng kiến ở Sài Gòn đã được nhân rộng khắp toàn quốc. Tại Nam Kỳ đến cuối tháng 9 năm 1936 đã thành lập hơn 600 uỷ ban hành động của công nhân, nông dân, viên chức. Nhiều ủy ban hành động có trụ sở, tổ chức sinh hoạt chính trị công khai, vạch trần hiện trạng bất công, cực khổ dưới chế độ thuộc địa tàn bạo, thảo luận các biện pháp đấu tranh thích hợp nhằm đạt được các yêu sách.

Năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương thảo ra bản "nguyện vọng" gửi tới phái đoàn chính phủ Pháp, đấu tranh đòi tự do, dân chủ. Các ủy ban hành động thành lập khắp nơi, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh, thảo luận dân chủ, dân sinh. Tháng 9 năm 1936 chính quyền Pháp giải tán Ủy ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo.

Tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã buộc nhà chính quyền Đông Dương ra Nghị định ngày 11/10/1936, quy định một số quyền lợi của công nhân như thời gian làm việc không được quá 8 giờ/ngày kể từ ngày 1/1/1938; công nhân được nghỉ chủ nhật và nghỉ phép năm có lương; cấm bắt phụ nữ và lực cai làm việc ban đêm...

Nhân dân lao động dựa vào những cơ sở pháp lý đó đấu tranh với giới chủ tư bản và chính quyền thuộc địa nhằm từng bước cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt của mình. Những tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc bãi công, trong đó có một số cuộc bãi công có quy mô lớn và có tiếng vang trên cả nước như cuộc bãi công của hàng ngàn công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), đặc biệt là cuộc bãi công của hơn 30.000 công nhân mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả (11/1936).

Kết quả của sự phối hợp đấu tranh giữa dân Pháp và dân Việt là đã buộc chính quyền thuộc địa phải trả lại tự do cho 1.532 tù chính trị, phần lớn là các chiến sĩ cộng sản. Ngay sau khi ra khỏi nhà tù thực dân, họ đã lao ngay vào cuộc chiến đấu mới, tổ chức quần chúng, xây dựng lại cơ sở, đưa phong trào cách mạng đi lên.

Đầu năm 1937, từ Bắc chí Nam người dân lao động mít tinh biểu dương lực lượng nhân dịp Justin Godart, phái viên của chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương. Ngày 1/1/1937, ở Nam Kỳ, hơn 20.000 người đủ các giới, nhất là giới lao động Sài Gòn - Chợ Lớn và nông dân phụ cận đón Godart bằng những khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, công bằng, thi hành luật lao động, thi hành chế độ làm 8 giờ/ngày, đòi quyền phụ nữ, quyền nông dân, công nhân, hủy thuế thân, giảm sưu cao thuế nặng, ân xá chính trị phạm,...

Phong trào của Mặt trận Dân chủ Đông Dương đạt tới đỉnh điểm với lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5/1938. Lần đầu tiên ở Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động được tổ chức kỷ niệm công khai, rầm rộ ở Hà Nội, Sài Gòn, có đông đảo quần chúng tham gia.

Để phong trào tiến lên mạnh mẽ hơn nữa, nhiều quyết định về tổ chức đã được thực hiện: lập Đoàn thanh niên phản Đế, Hội cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội. Tại nông thôn, các hình thức tổ chức như Hội cấy, Hội lợp nhà, Hội chèo... được phát triển rộng khắp, tập hợp được hàng triệu quần chúng.

Từ năm 1937, Đảng Cộng sản Đông Dương lưu hành hợp pháp, bán hợp pháp, và bất hợp pháp các tờ báo Tin tức, Đời nay, Phổ thông, Dân chúng, Lao động, Tranh đấu... bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Những tờ báo đó đã trở thành mũi xung kích trong cuộc vận động dân chủ, dân sinh.

Nhiều sách chính trị - lý luận xuất bản công khai hoặc bí mật, ngay tại thuộc địa hoặc đưa từ Pháp về. Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như: Bước đường cùng, Tắt đèn, Số đỏ, thơ cách mạng, kịch Đời cô Lựu,...

Cuối năm 1937, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ giúp quần chúng đọc được sách báo, nâng cao sự hiểu biết về chính trị và cách mạng.

Cao trào dân chủ đã buộc Pháp phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ. Quần chúng được giác ngộ về chính trị, trở thành lực lượng chính trị mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Cán bộ cộng sản được tập hợp và trưởng thành. Phong trào đó cũng là một cuộc tổng diễn tập, chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám sau này.[2][3]

Phong trào cách mạng 1939-1945Sửa đổi

Chủ trương bạo độngSửa đổi

Bài chi tiết: Hội nghị Bà Điểm (1939) và Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương

Ngày 29 và 30 tháng 8 năm 1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức Hội nghị tại Bà Điểm (thuộc 18 thôn vườn trầu, Hóc Môn, Gia Định) do Tổng bí thư Hà Huy Tập chủ trì, có sự tham gia của Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Chí Diểu,... Hội nghị đã tổng kết lại phong trào cách mạng, đặc biệt là lớn mạnh của Đảng Cộng sản Đông Dương qua phong trào đấu tranh dân chủ. Trước tình hình mới, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương thay cho Mặt trận Nhân dân Phản đế, tăng cường hoạt động đấu tranh quần chúng. Mặt khác Hội nghị ra một nghị quyết riêng về phòng thủ Đông Dương và vận động binh lính, bầu Nguyễn Văn Cừ làm Tổng bí thư.[4]

Ngày 6 tháng 11 năm 1939, sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra (1 tháng 9, 1939), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức Hội nghị Trung ương do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì ở Bà Điểm, có sự góp mặt của Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn,... Hội nghị phân tích mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương thay thế Mặt trận Thống nhất Dân chủ, tập trung vào kẻ thù chính là đế quốc và tay sai, chuyển đấu tranh dân chủ sang bạo động cách mạng, đề ra khẩu hiệu thành lập chính quyền Dân chủ Cộng hòa thay cho chính quyền Xô viết, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.[5]

Những tiếng súng đầu tiênSửa đổi

Bài chi tiết: Khởi nghĩa Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kỳ, và Binh biến Đô Lương

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, người dân Bắc Sơn do Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương địa phương lãnh đạo đã chớp cơ hội đế quốc Nhật tấn công vào Lạng Sơn, đế quốc Pháp trốn chạy về Thái Nguyên qua Bắc Sơn, Đảng bộ Bắc Sơn huy động dân chúng vũ trang cướp chính quyền, tấn công chiếm được đồn Mỏ Nhài, tiếp tục tấn công tàn quân Pháp ở đèo Canh Tiêm, Sập Dì. Xứ ủy Bắc Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương cử Trần Đăng Ninh lãnh đạo phong trào và xây dựng lực lượng để chiến đấu lâu dài. Pháp sau đó tập trung quân chiếm lại các đồn và đàn áp phong trào. Khởi nghĩa Bắc Sơn tan rã nhưng phong trào du kích vẫn tiếp tục.[6]

Năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ trong hoàn cảnh nước Pháp bị bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương, chiến tranh Pháp-Xiêm có nguy cơ bùng nổ, phong trào phản kháng của binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp ở miền Nam Việt Nam có dấu hiệu phát triển. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tháng 11 nhận định điều kiện cách mạng chưa chín muồi, đã quyết nghị đình hoãn cuộc khởi nghĩa. Nhưng quyết định đó chưa kịp phổ biến thì lệnh khởi nghĩa đã được ban bố. Ngày 23/11, khởi nghĩa đã diễn ra ở Mỹ Tho, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên, Bạc Liêu... Chính quyền cách mạng được thành lập ở một số nơi và đã bắt đầu ngay một số cải cách dân chủ. Riêng ở Sài Gòn, kế hoạch bị lộ, Pháp kịp đề phòng, và khởi nghĩa không thực hiện được. Pháp thẳng tay đàn áp phong trào khởi nghĩa. Hàng nghìn người bị giết và bị bắt, nhiều làng mạc bị triệt phá, nhiều cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương (Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai...) bị xử tử. Lực lượng khởi nghĩa một số rút được về U Minh, Đồng Tháp... Khởi nghĩa Nam Kỳ đã nêu cao ý chí đấu tranh của người dân Việt Nam và báo hiệu 1 cuộc khởi nghĩa toàn quốc, bước đầu đấu tranh vũ trang của các dân tộc ở Đông Dương.[6]

Ngày 13 tháng 1 năm 1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính người Việt trong quân đội Pháp đang đóng ở đồn Chợ Rạng (Thanh Chương, Nghệ An) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên xe kéo về Vinh, định cùng binh lính người Việt ở đây tấn công Pháp để chiếm thành. Kế hoạch không thành, Đội Cung bị bắt và bị xử tử cùng với 10 đồng đội của ông tại Vinh ngày 24 tháng 4. Nhiều người khác bị kết án khổ sai và đưa đi đày.[7]

Phong trào Việt MinhSửa đổi

Bài chi tiết: Hội nghị Pác Bó và Mặt trận Việt Minh

Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách mạng chống Pháp. Sau một thời gian nắm tình hình quốc nội và chuẩn bị, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương từ ngày 10-19 tháng 5 năm 1941 trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Hội nghị Pác Bó đã xác định cuộc cách mạng ở Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là 1 cuộc cách mạng dân tộc giải phóng và chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngoài ra, hội nghị cũng hoàn chỉnh hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được đề ra từ hội nghị VI vào tháng 11 năm 1939 là đề cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, vào ngày 19 tháng 5 năm 1941, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Đây là một mặt trận dân tộc do Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập và lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ trước mắt, đó là giải phóng dân tộc, chống Pháp giành độc lập.[8]

Tháng 1 năm 1944, để thúc đẩy khởi nghĩa vũ trang, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị Quân chính Bắc Kỳ tại làng Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh) do Hạ Bá Cang chủ trì, có sự tham gia của Văn Tiến Dũng, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Trân, Ngô Thế Sơn, Lưu Đức Hiếu,... Hội nghị kiểm điểm sự phát triển của các đoàn thể Cứu quốc; việc tổ chức các Đội tự vệ vũ trang, việc xây dựng các căn cứ quân sự; đề ra các biện pháp phát triển công tác công vận, binh vận; đặt vấn đề đẩy mạnh quân sự hoá các đoàn thể quần chún; mở các lớp huấn luyện quân sự cho các Xứ uỷ viên, Tỉnh uỷ viên, Thành uỷ viên để tổ chức huấn luyện quân sự trong các địa phương.[9]

Cao trào kháng NhậtSửa đổi

Bài chi tiết: Cao trào kháng Nhật cứu nước và Khởi nghĩa Ba Tơ

Tối 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn bán đảo Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Sau khi lật Pháp độc chiếm Đông Dương, chính quyền thuộc địa mới của Nhật Bản liền thi hành chính sách mua chuộc, mỵ dân, kết hợp với chính sách đàn áp.

Về chính trị, Đế quốc Nhật Bản tuyên bố trao trả "độc lập" cho Việt Nam, thành lập và bảo hộ Đế quốc Việt Nam, nhưng giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp và thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Nhật cho quân đội Thiên Hoàng tấn công vào các chiến khu và cơ sở cách mạng của Việt Minh.

Về kinh tế, Nhật chiếm các cơ sở kinh tế của chế độ cũ, in giấy bạc mới tung ra thị trường, vơ vét tư liệu sản xuất, hàng hóa, lương thực và cướp đoạt tài sản của dân chúng Việt Nam; làm cho nền kinh tế Việt Nam bị kiệt quệ, cuộc sống người dân điêu đứng, cùng quẫn. Giá gạo ở Bắc Kỳ vào tháng 10 năm 1944 còn là 1.150 đồng/tạ, thì đến tháng 2 năm 1945 đã là 1.000 đồng/tạ. Tình trạng đó đã dẫn đến nạn đói Ất Dậu, làm gần 2 triệu người bị chết đói.

Trong cuộc họp kéo dài từ ngày 9 tháng 3 đến 12 tháng 3, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị "Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động cao trào kháng Nhật mạnh mẽ và chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; đồng thời thay đổi hình thức tuyên truyền, thay đổi khẩu hiệu tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với tình hình mới.

Phong trào đã diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức, tấn công Nhật toàn diện trên các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa... trên khắp các thành thị, nông thôn, và vùng thượng du. Phong trào đã chiếm giữ được nhiều vùng rộng lớn, hình thành nhiều căn cứ cộng sản.

Quân đội Nhật đã mở các cuộc càn quét, bình định, tấn công mạnh vào các vùng của Việt Minh. Quân Việt Minh, các đội dân quân, tự vệ, du kích đã chống trả quyết liệt, bảo vệ căn cứ của họ. Tại các đô thị, các phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, viên chức dâng cao. Nhiều tổ chức công nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp. Cao trào kháng Nhật hoạt động sôi nổi trên cả nước.

Ngày trong thời điểm này, tổ chức Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương nhiều nơi đã phát động nổi dậy ở một số địa phương: Ngày 10 tháng 3, Ban cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh phát động nổi dậy ở xã Trung Mầu, rồi lan ra khắp huyện Tiên Du, tuyên bố thành lập chính quyền nhân dân.[10] Đêm ngày 11 tháng 3, tổ chức Việt Minh tại Hưng Yên tổ chức tập kích đồn Bần, mở đầu cho các cuộc "phá kho thóc Nhật" trong tỉnh.[11] Cùng ngày, chi bộ Đảng ở căng Ba Tơ (Quảng Ngãi) tiến hành khởi nghĩa, phá nhà lao, thành lập Đội du kích Ba Tơ do Nguyễn Chánh chỉ huy, thành lập chính quyền huyện.[12] Ngày 12 tháng 3, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ Lê Thanh Nghị cùng Bí thư Ban cán sự Đảng Bắc Giang Nguyễn Trọng Tỉnh trên đường đến Hiệp Hòa, qua Xuân Biều thì phát động khởi nghĩa, thành lập chính quyền.[13][14]

Những sự chuẩn bị cuối cùngSửa đổi

Ngày 15 tháng 4 đến 20 tháng 4 năm 1945, Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Hội nghị quyết định phát triển lực lượng vũ trang, thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, thành Việt Nam Giải phóng quân, xây dựng trong nước 7 chiến khu: Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Trần Hưng Đạo ở Bắc Kỳ, Phan Đình Phùng, Trưng Trắc ở Trung Kỳ, Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ. Hội nghị bầu ra Ủy ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ gồm Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh để chỉ huy các chiến khu ở miền bắc Đông Dương và giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự.[15][16]

Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam và Ủy ban Dân tộc Giải phóng các cấp, sẵn sàng chuẩn bị cho việc giành chính quyền. Đến ngày 15 tháng 5, Việt Nam Giải phóng quân chính thức thành lập, bắt đầu tiến hành các hoạt động quân sự ở các tỉnh miền núi vùng đông bắc Bắc Kỳ.[17]

Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh từ Pác Bó đến Tân Trào để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Ngày 4 tháng 6, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Khu Giải phóng Việt Bắc được thành lập trên cơ sở các chiến khu và khu vực được Giải phóng quân giải phóng thuộc 6 tỉnh Cao, Bắc, Lạng, Hà, Tuyên, Thái.[18] Khu giải phóng Việt Bắc là căn cứ địa chính của phong trào cách mạng, cũng là địa điểm để tổ chức hoạt động thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, đóng vai trò chính phủ lâm thời sau khi giành chính quyền.[19]

Việt Nam độc lậpSửa đổi

Cách mạng tháng TámSửa đổi

Bài chi tiết: Cách mạng tháng Tám

Khi Đế quốc Nhật đầu hàng phe Đồng Minh giữa năm 1945, Việt Nam có cơ hội lớn giành lại độc lập. Cơ hội này đã được Hồ Chí Minh và Việt Minh tận dụng. Ngày 19/8/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám, khởi đầu từ Tổng khởi nghĩa Hà Nội rồi dần lan rộng ra khắp miền Bắc, miền Trung, miền Nam và cả nước. Kết quả Đế quốc Nhật và chính phủ Đế quốc Việt Nam do họ thành lập và bảo hộ đã sụp đổ.

Việt Nam phục hồi độc lậpSửa đổi

Bài chi tiết: Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam

Sáng ngày 26/8/1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh (meeting trong tiếng Anh) lớn ở Hà Nội để ra mắt người dân và chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.

Ngày 30/8/1945, Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc lập do ông soạn thảo.

Ngày 31/8/1945, Hồ Chí Minh bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên ngôn độc lập.

Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước đông đảo nhân dân, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam chính thức phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm Pháp thuộc.

Đây được nhiều người xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ 3 trong lịch sử Việt Nam, sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt ở thế kỷ X và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1428.[6]

Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và ý nghĩa hiện thực với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

(ĐCSVN) - Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam: Đất nước độc lập, nhân dân được tự do sau gần 100 năm thống khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Cuộc cách mạng ấy vượt tầm ảnh hưởng ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành động lực, niềm tin, cổ vũ cho nhân dân các nước thuộc địa đứng lên giành độc lập.

Rất nhiều nhà sử học nước ngoài khi nghiên cứu về Việt Nam đều cho rằng, cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam mà còn khởi nguồn các cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị thực dân của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Giáo sư người Jamaica Horet Compel, người từng nghiên cứu nhiều về lịch sử Việt Nam đã nhận xét: “Thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam không thể không nhắc tới vai trò lãnh đạo to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng dân tộc của Việt Nam và một nhà lãnh đạo kiệt xuất của thế giới, đã đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam”. Và chính thắng lợi của cuộc cách mạng đó đã chứng minh một cách sinh động những tư tưởng đặc sắc, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Đó là các phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa thục, các phong trào Đông Du, Tây Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành v.v.. Các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước, bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối cứu nước. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới.

Sau nhiều năm bôn ba ở khắp các châu lục Á, Phi, Âu, Mỹ làm đủ mọi nghề để kiếm sống, hòa mình trong quần chúng cần lao, trong giới thợ thuyền, trực tiếp chứng kiến cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “ Ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân…. Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[1]

Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và khát vọng giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào, trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng con ngưòi là nhu cầu cấp thiết không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các dân tộc thuộc địa và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Từ tình yêu thương con ngưòi đã trở thành khát vọng giải phóng con người, Nguyễn Ái Quốc luôn nung nấu ý chí tìm đường giải phóng không chỉ với dân tộc mình mà còn với mọi tầng lớp cùng khổ trên khắp các châu lục. Khi nhận ra các cuộc cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Mỹ chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ không xóa bỏ được áp bức bóc lột, Người cho rằng đó là những cuộc cách mạng không đến nơi, không triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản không phải là lối thoát cho dân tộc.

Đang lúc còn băn khoăn, mầy mò chưa tìm được lối ra cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp được những tưởng của V.I.Lênin v vấn đề dân tộc và thuộc địa (7-1920). Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã đi tới khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[2].

Đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

Đường lối đó thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội nước ta - cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Đó cũng chính là nét đặc sắc và sự khác biệt căn bản về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các con đường của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học ở Việt Nam; khác biệt với con đường cứu nước của M.Ganđi, G.Nêru ở Ấn Độ, A.Xucacnô ở Inđônêxia, Natxe ở Ai Cập, H. Bumêđiêng ở Angiêri và nhiều nhân vật khác trên thế giới.

Vạch ra con đường cứu nước đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khai thông bế tắc đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta. Đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Đó là việc xây dựng thành công lực lượng cách mạng với Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi lấy liên minh công nông làm nòng cốt, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở nước ta. Đó là việc xác định chính xác phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn đất nước để thực hiện thành công các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trước các biến động hết sức phức tạp trong các quan hệ quốc tế.

Với những thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, của 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và 20 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược, dân tộc ta không chỉ thi hành "Bản án chế độ thực dân" ở Việt Nam, giành lại độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới vì tự do, hạnh phúc của nhân dân ta, mà còn cùng với các dân tộc thuộc địa và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới đấu tranh loại bỏ vết nhơ áp bức của chủ nghĩa thực dân, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Lịch sử đã chứng minh một cách rõ ràng tính cách mạng, khoa học đúng đắn con đường giải phóng dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lựa chọn và thực hiện thắng lợi ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đã từng là tấm gương ngưỡng mộ và cổ vũ các dân tộc bị áp bức noi theo. Đáng tiếc là, gần đây, trước những biến cố chính trị ở Đông Âu và Liên Xô cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỷ trước, một số kẻ cơ hội chính trị đã dấy lên phong trào công kích vào sự lựa chọn con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta lựa chọn. Họ cho rằng sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sai ngay từ đầu, và đã đưa dân tộc ta vào ngõ cụt. Rằng giá như chúng ta đi theo con đường khác hoặc như cụ Phan Bội Châu, hay cụ Phan Chu Trinh đã lựa chọn thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập về kinh tế, văn hoá, vẫn phát triển như một số quốc gia trong khu vực, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, hao tổn biết bao xương máu mà ngày nay nhân dân ta vẫn chưa thoát khỏi nước nghèo, chậm phát triển? Họ ra sức phủ nhận tính chất của thời đại ngày nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội để cổ suý cho cái gọi là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lênin.

Một số người tỏ ra thận trọng hơn, tuy không công khai bác bỏ con đường mà Đảng ta và Hồ Chí Minh đã lựa chọn, song họ cho rằng lẽ ra sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta không nên vội vàng bước ngay vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nên có một thời gian để làm nốt những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đặt nhiệm vụ giải quyết những nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lúc này là quá sớm! Họ cho rằng cuộc sống sẽ phát triển theo đúng quy luật tự nhiên của nó, không thể đốt cháy giai đoạn cũng như không thể bỏ qua một phương thức sản xuất khi những tiền đề vật chất - kinh tế chưa chín muồi! Thực chất của những quan điểm này dù được che đậy và nguỵ trang khéo léo tinh vi dưới mọi hình thức thì về bản chất đều nhằm tới mục đích phủ nhận con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.

Những ý kiến trên đây mới nghe tưởng chừng có lý, dễ dàng lọt tai với những ai nhẹ dạ cả tin, hoặc thiếu một sự suy đoán khoa học. Vậy thử hỏi họ đã đứng trên lập trường nào để xem xét và phê phán con đường mà dân tộc ta đã đấu tranh lâu dài, đổ bao xương máu mới giành lại được độc lập tư do cho dân tộc? Và làm xong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhân dân ta, dân tộc ta sẽ bước tiếp dưới ngọn cờ của giai cấp nào? Liệu giai cấp tư sản có đủ uy tín và năng lực để đem lại tự do, ấm no hạnh phúc cho toàn dân? Chả lẽ sự hy sinh xương máu để giành lại độc lập cho dân tộc của nhiều thế hệ nguời Việt Nam mấy chục năm ròng đấu tranh chống lại các thế lực đế quốc xâm lược, giờ đây được trao lại thành quả cách mạng đó cho giai cấp tư sản và chấp nhận sự tồn tại của một chế độ mà lịch sử thế giới hiện đại đã và đang chứng minh tính chất lỗi thời của nó?

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930, là đường lối nhất quán của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhân dân ta đồng tình ủng hộ, dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay đổi. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển.

Ở nước ta không có đất cho chủ nghĩa tư bản thống trị như một chế độ xã hội, không có đất cho một chủ thuyết chính trị nào khác khả dĩ được nhân dân chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Một chủ thuyết chính trị khác, chẳng hạn chủ nghĩa xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, đối lập với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dù có tô vẽ ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc thực chất không thể gì khác là một đường lối đưa dân tộc trở lại số phận nô lệ hay phụ thuộc vào các thế lực đế quốc thực dân bên ngoài.

Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt từng được thử thách của đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng vĩ đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn. Cách mạng là sáng tạo, là sự thống nhất biện chứng giữa những quy luật phổ biến với tính đặc thù của từng dân tộc. Không có mô hình duy nhất trong thực tiễn cho các quốc gia. Chủ nghĩa giáo điều, dù cũ hay mới, cũng như chủ nghĩa xét lại đều trái với con đường cách mạng và phát triển Việt Nam.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh “dĩ bất biến ứng vạn biến”, kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo và thông minh tính kiên định về nguyên tắc và mục tiêu không thay đổi với đầu óc uyển chuyển, tinh thần và khả năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và đất nước giai đoạn đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay - đó là bí quyết thành công trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng ta và dân tộc ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “ Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.”[3]


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG ,Hà Nội 2000, t.1, tr. 266).

[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2002, tập 9, tr 314

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, NxbCTQG, H. 2011, tr 39

Video liên quan

Chủ đề